Tóm Tắt Nội Dung
Thần Chú Mahakala – Đại Huyền Kim Cương Hộ Pháp
Đại Hắc Thiên Mahakala Là Ai?
Đại Hắc Thiên Mahakala là một vị thần được biết đến trong Ấn Độ giáo và Phật giáo Mật tông. Trong cả hai tôn giáo, Mahākāla là một biểu hiện khốc liệt của Shiva và là sự phối ngẫu của nữ thần Mahākālī; Ngài nổi bật nhất xuất hiện trong giáo phái Kalikula của Shaktism.
Mahākāla cũng xuất hiện với tư cách là một vị thần bảo vệ được gọi là Dharmapala (Hộ Pháp) ở Vajrayana, bí truyền Trung Quốc và Phật giáo Tây Tạng, và cũng ở Truyền thống Chàn và Shingon.
Ngài được biết đến với cái tên là Dahritian và Daiaihhaktin (大 黑) trong tiếng phổ thông và tiếng Quảng Đông, Daeheukcheon (대흑천) tại Hàn Quốc, Đại Hắc Thiên: tiếng Việt và Daikokuten (大) trong tiếng Nhật.
Mahā “Tuyệt vời” và Kāla “Time / Death”, có nghĩa là “ngoài thời gian” hoặc chết. Tây Tạng: ནག་པོ་ ཆེན་ པོ., THL: Nak Po Chen Po có nghĩa là “Black Black One”. Tây Tạng: མགོན་ པོ., THL: Gay Po “Người bảo vệ” cũng được sử dụng để giới thiệu cụ thể với Mahākāla.
Huyền thoại về lịch sử của Mahakala được viết bởi Khedrup Khyungpopa, là người sáng lập dòng truyền thừa Shangpa Kagyu, vào thế kỉ thứ 11. Ngài dạy rằng sức mạnh đặc biệt cũng như năng lực kì diệu của Mahakala là do nguyện lực của đức Avalokiteshvara (Quan Thế Âm).
Ngài nguyện còn sinh tử và quyết không thành Phật nếu còn chúng sanh chưa được giác ngộ. Sau khi giúp hàng trăm ngàn người, trong vô số đời đạt tới giác ngộ.
Ngài thấy rằng sự đau khổ không hề giảm sút mà hơn thế nữa sự ô nhiễm trong tâm thức chúng sanh ngày một tăng trưởng. Ngài thấy thất vọng, nhụt chí. Lúc đó lập tức đầu ngài vỡ tan thành trăm ngàn mảnh vụn.
Phật A Di Đà (Amitabha) một trong 5 vị Phật (Tỳ Lô Giá Na Phật, Bảo Sanh Phật, Khai Phu Hoa Vương Phật, A Di Đà Phật, Thiên Cổ Lôi Âm Phật) ghép những mảnh vỡ lại, và biến thành 11 đầu.
Sau đó ngài dặn dò đức Avalokiteshvara hãy thực hiện lại lời nguyện đó một lần nữa, nhưng giữ lời nguyện đó tốt hơn, kiên cố hơn. Do đó Avalokiteshvara có mười một đầu, và trong đó có mười đầu là hiền hoà và một đầu là phẫn nộ. Đầu phẫn nộ đó chính là đại diện cho Mahakala.
Ngài Avalokiteshvara buồn bã, trong khoảng thời gian 7 ngày. Ngài nghĩ rằng trên thế giới đầy những chúng sanh đau khổ cần một kết quả thật nhanh chóng mà không phải có quá nhiều nỗ lực.
Sau đó ngài muốn biến mình thành một bổn tôn phẫn nộ để đánh bại nhanh chóng và hiệu quả hơn những trở ngại cho hạnh phúc của người khác. Với tư tưởng này chữ HUM màu xanh đậm xuất hiện từ trái tim ngài. Chủng tự Hum đó đã trở thành Mahakala. Điều đó có nghĩa rằng trong câu thần chú ‘Om Mani Padme Hum’, chủng tự Hum tượng trưng cho sức mạnh, quyền năng.
Sự xuất hiện của Mahakala kéo theo sự rung động của mặt đất, đồng thời có giọng nói của chư Phật vang vọng trong không trung chứng minh rằng Mahakala có đủ quyền năng làm ban phát những gì chúng sinh mong muốn nếu những mong muốn đó là trung thực và tốt
Mahakala là một hộ thần giám hộ cho người thống trị Mông Cổ- Thành Cát Tư Hãn- lúc bấy giờ. Sự phẫn nộ của Mahakala được xem giống như hoá thân phẫn nộ của thần Siva.
Ở Tây Tạng, về hình ảnh của Mahakala thường có một đầu và ba mắt, lông mày như những ngọn lửa nhỏ và râu thì có dạng như hình móc câu. Mahakala có từ 2 đến 6 tay.
Điều tự nhiên cơ bản mà dân Tây Tạng thường thờ cúng Mahakala có lẽ là vì ngài là vị thần của lều trại. Bởi vì dân Tây Tạng sống du mục, do vậy thời gian ở lâu mau là phụ thuộc vào thiên nhiên và môi trường xung quanh, do vậy họ dùng lều trại, việc di chuyển và định cư tạm thời là một phần quan trọng của cuộc đời họ.
Ngoài ra ngài còn là một Hộ Pháp rất quan trọng, bởi thế cho nên ở mỗi tu viện đều có một nơi thờ Mahakala.
Hình Tướng Mahakala Phổ Biến
Mahakala rất phổ biến ở Nepal và thường được tìm thấy ở lối vào các tu viện Phật giáo, cùng với Ganesh. Hình tượng của Mahakala là đối tượng của sự sùng kính của cư sĩ, do đó Mahakala thường bị các tín đồ bôi bẩn bằng thức ăn và bột. Hình tượng của Mahakala ở đây được phân tích theo số lượng cánh tay.
Sự thay đổi đáng chú ý nhất trong các biểu hiện và mô tả của Mahakala là ở số lượng cánh tay, nhưng các chi tiết khác cũng có thể thay đổi.
Ví dụ:
- Mahakala hai tay được biến đổi từ vị Phật đầu tiên, Ardhalma, và được tôn thờ vì trí tuệ tâm linh của ông.
- Mahakala bốn tay được biến đổi từ Báo thân Phật.
- Mahakala sáu cánh có hai dạng: một trắng và một đen. Hình dạng màu trắng của Ngài giúp người ta đạt được sự giàu có và cuộc sống lâu dài. Hình dạng màu đen của ông được biến đổi từ Avalokitesvara và giúp mọi người chinh phục bất kỳ chướng ngại vật nào trên con đường giác ngộ của họ.
Mahakala thường có màu đen. Giống như tất cả các màu sắc bị hấp thụ và hòa tan thành màu đen, tất cả các tên và hình dạng được cho là tan thành các màu sắc của Mahakala, tượng trưng cho bản chất toàn diện, toàn diện của Ngài.
Màu đen cũng có thể đại diện cho sự vắng mặt hoàn toàn của màu sắc và biểu thị bản chất của Mahakala là thực tại tối thượng hoặc tuyệt đối và siêu việt của mọi hình thức.
Mahakala hai tay
Mahakala hai tay phổ biến nhất trong Phật giáo Newari của Nepal. Ngài được mô tả là hình dạng mà những đau khổ của chúng sinh được loại bỏ. Những hình ảnh như vậy được đặt trong lối vào của nhiều bahals (tu viện) với Mahakala ở bên trái hướng đi vào và Ganesha ở bên phải.
Mahakala 2 tay thường được miêu tả là Mahakala một mặt và hai tay đứng trên một xác chết, tay phải cầm một con dao bầu tượng trưng cho việc cắt bỏ những hình mẫu tiêu cực như hung hăng, thù hận và ngu dốt.
Trong tay trái, ngài ta cầm một chiếc cốc đầu lâu, một yếu tố nghi lễ thường chứa đầy máu hoặc vật chất não người.
Người ta nhìn thấy ngài ta đứng trên xác chết của hai cơ thể người, do đó tượng trưng cho cái chết của những tiêu cực và sự nhổ bỏ hoàn toàn của những hình mẫu tiêu cực đến mức, giống như một xác chết, họ sẽ không thể sống lại.
Vật trang trí của ngài ấy, một sợi chỉ thiêng rắn, và vòng chân, vòng hoa làm bằng cốc đầu lâu, hoa tai, vòng cổ và vòng tay.
Thân hình người lùn với đôi mắt lồi và mái tóc rực lửa.
Mahakala hai tay được gọi là Bernakchen là một hộ pháp của trường phái Karma Kagyu.
Kartaridhara, Mahakala
Kartaridhara, tiếng Tây Tạng: dri gug gon po nag po chen po, tiếng Anh: the Black Lord with a Curved Knife). Mahakala là Chúa tể vinh quang, màu xanh đen, có một khuôn mặt và hai tay, ba mắt tròn màu đỏ, răng nanh nhe ra, tóc màu cam hướng lên trên, vương miện có năm đầu lâu khô, một sợi dây chuyền hình đầu người và thần thánh của năm chủng tộc trang hoàng đầu.
Tay phải cầm một con dao cong, tay trái cầm một cốc sọ chứa đầy máu ở trái tim. Chân phải uốn cong và chân trái mở rộng, đứng trên hoa sen, mặt trời và xác người hếch. Mặc chiếc áo da hổ phía dưới, ngự giữa một khối lửa đỏ đen rực cháy.
Cũng được trang trí bởi một chiếc khăn lớn màu xanh lá cây chảy và hai vòng cổ của những con rắn đang quằn quại Mahakala được miêu tả trên vầng quang màu đỏ tươi được bao quanh hoàn toàn với những đốm lửa tương phản với nền xanh đậm phía trên một bông sen nhiều màu ở giữa hồ nước xanh.
Panjarnata Mahakala
Panjarnata Mahakala (tiếng Tây Tạng: gur gyi gon po nag po chen po, tiếng Anh: The Great Black One, Lord of the Pavilion). Mahakala với một mặt và hai tay cầm một con dao cong và cốc đầu lâu vào trái tim. Nằm trên cẳng tay là cây gậy “Gandhi”. Trên vương miện của người đứng đầu là Đức Phật Vairochana.
Rất dữ tợn với tất cả các đồ trang sức và trang phục phẫn nộ thường thấy, ngài ta đeo một sợi dây chuyền có năm mươi cái đầu bị cắt rời và bộ quần áo bên dưới bằng da hổ.
Đứng trong tư thế ngồi xổm trên một xác chết phía trên bệ hình mặt trời, vị ấy đứng trong một khối lửa rực cháy của nhận thức nguyên sơ.
Phát ra từ vòng tròn ngọn lửa dọc theo phía trên và bên trái là một con sói, chó đen, quạ đen và garudas ngay phía trên. Những con vật này là sứ giả của Mahakala.
Mahakala Tứ thủ – Chaturbhuja Mahakala
Mahakala Tứ Thủ là hộ pháp đặc biệt bảo vệ các giáo pháp. Ngài nêu biểu sự giận dữ và bi mẫn kim cương. Bốn tay Ngài nêu biểu bốn công hạnh giác ngộ: Tay trái cầm một chén sọ đựng cam lộ, là phương tiện thực hành tức tai, tiêu trừ bệnh tật, các chướng ngại.
Một tay phải cầm dao cong, nêu biểu tăng ích, tăng trưởng tuổi thọ, các phẩm chất tốt đẹp và trí tuệ. Tay phải thứ hai cầm một thanh gươm, nêu biểu kính ái, tập hợp mọi thứ hành giả cần và đưa chúng sinh đến với Phật pháp.
Tay trái còn lại cầm một cây chĩa ba hàng phục chướng ngại. Ba chẽ của cây chĩa ba chặt đứt tam độc (tham, sân, si), tiêu trừ các mê lầm, nghi ngờ và vô minh.
Thân Hộ pháp Mahakala có sắc xanh dương đậm, nêu biểu cho Pháp thân bất biến. Ba mắt nêu biểu sự hiểu rõ ba đời, và là sự hóa hiện sinh động của Tam thân Phật.
Mũ miện năm sọ nêu biểu sự chuyển hóa ngũ độc (tham, sân, si, tật đố, ngã mạn) thành Ngũ Trí. Hai chân nêu biểu phương tiện và trí tuệ. Chân phải co, chân trái duỗi nêu biểu việc Ngài viên mãn tự lợi và lợi tha.
Ngài dẫm lên một quỷ thần, nêu biểu việc Ngài tiêu trừ các chướng ngại to lớn. Tòa mặt trời dưới chân Ngài nêu biểu Ngài soi rọi bóng đêm vô minh.
Tòa sen nêu biểu sự thanh tịnh không có nhiễm ô của luân hồi. Vầng lửa rực sáng xung quanh nêu biểu công hạnh của Ngài tiêu trừ các vọng tưởng trong tâm.
Tấm da hổ Ngài khoác nêu biểu sự tịnh hóa tham muốn; tấm da voi nêu biểu sự tịnh hóa kiêu mạn, và tấm da rắn nêu biểu sự tịnh hóa sân giận. Tất cả các sức trang hoàng khác của Ngài nêu biểu Ngài có đầy đủ các phẩm chất của Phật.
Mahakala trắng sáu cánh
Mahakala trắng sáu cánh tay được gọi là Chúa tể Kho báu Bai Ruyi Yishou. Vị thần đầu tiên là ở Shangpa Kagyu, và sau đó được truyền cho chi nhánh của trường phái Sakya. Đây là một pháp bảo đặc biệt, nó là một vị thần bảo vệ trí tuệ cho tài bảo vẹn toàn .
Mahakala trắng sáu tay là biểu hiện của lòng thương xót của Đức Quán Thế Âm bốn tay. Ngài có thể thu phục tất cả những thành tựu của ba cõi, kêu gọi của cải, công đức và sự sống, tăng thêm trái đất, nghe, chiêm nghiệm và tu luyện ba trí tuệ…,và tuân theo những người tuân thủ giới luật nghiêm ngặt và giúp đỡ người khác.
Phương pháp bảo vệ Baiyong là Bai Mahakala, là một dạng Mahakala cải trang, và là một trong những báu vật trí tuệ của Phật giáo Tây Tạng.
Đây là một pháp bảo báu vật rất nổi tiếng được xây dựng bởi ngôi đền chính của Giáo phái Sakya. Vị thần chính trong chai là Mahakala trắng sáu tay, có tên là “Bai Ruyi Treasure Master”, và được coi là “Vua Của Sự Giàu Có.”
Quán Thế Âm Bồ tát không thể chịu đựng tất cả chúng sinh phải chịu đựng đau khổ vô tận, và hóa thân thành Mahakala trắng với sức mạnh của lòng từ bi. Nó được phóng đại lần đầu ở Shangpa Kagyu, và sau đó được truyền sang nhánh Sakya. Đây là một thực hành đặc biệt không phổ biến. Theo truyền thuyết, vị thần này sống trong xác chết mát mẻ của Ấn Độ. Lấy vị thần làm biểu hiện của lòng từ bi của Đức Quán Thế Âm bốn tay, nó có thể thu phục tất cả những thành tựu của ba cõi, kêu gọi của cải, công đức, tuổi thọ, đe dọa, trấn áp (điều chế) của trời, nhân loại, ma, Á-Âu, v.v. Loại bỏ những chướng ngại như tà ma, ngoại đường, ma chướng và tà ma, tà thần, v.v… theo chân hành giả nghiêm trì giới luật, giúp đi, tăng, ôm, sát phạt nghiệp, tăng tam bảo. nghe, suy nghĩ và trau dồi.
Thần Chú Mahakala – Đại Huyền Kim Cương Hộ Pháp
Om Shri Mahakala Hum Phat (Phe) // Om Shri Mahakala Hum Hum Phat Svaha Thần Chú dài: Om Mahkala Kala Bikala Ratrita Dombini Candali Rakshisi singhali devibhyo Hung Phet Thần Chú Mahakala Trắng: Om Guru Mahakala Hari Ni Sa Siddhi Dza
Tổng hợp & dịch từ: Thư viện Hoa Sen, Tuyenphap, Wikipedia, Phật giáo Việt Nam, WeeklyBuddha
Đóng góp duy trì:
Hãy theo dõi chúng tôi:
Thanh Âm Thư Giãn + Meditation Meloady
Sagomeko Internet Marketing Services – Trà Sữa Đài Loan Hokkaido Vietnam – Du lịch Đất Mũi Cà Mau –Bracknell Berks Funeral celebrant – Try A Place – SEO My Business
Đọc thêm các bài viết chính:
Phật Thích Ca Mâu Ni, A Di Đà Phật, Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát, Văn Thù Bồ Tát, Địa Tạng Vương Bồ Tát, Phật Dược Sư Lưu Ly Vương Quang, Liên Hoa Sanh Guru Rinpoche, Lục Độ Phật Mẫu – Tara.Lục Tự Đại Minh Chú, Chú Đại Bi Tiếng Việt, Chú Đại Bi tiếng Hoa, Chú Đại Bi tiếng Phạn, Chú Lăng Nghiệm, Chú Tiêu Tai Cát Tường, Chú Vãng Sanh, Chú Om Ah Hum
Thanh Âm Thư Giãn chân thành cảm ơn.
Tag: Đại Hắc Thiên Mahakala, Mahakala là Ai, Đại Hắc Thiên, Mahakala 2 cánh tay, Mahakala Tứ thủ, Mahakala 6 Cánh Tay, Mahakala Trắng, White Mahakala