Tóm Tắt Nội Dung
Bát đại Hộ pháp của Phật giáo Tây Tạng
Palden Lhamo Là Ai?
Palden Lhamo – Bạch Lạp Mổ (“Nữ thần vinh quang”, tiếng Tây Tạng : དཔལ་ ལྡན་ ལྷ་ མོ ། , Wylie : dpal ldan lha mo , phương ngữ Lhasa , tiếng Phạn : Śrīdēvī , tiếng Mông Cổ : Ukin Tengri ) hoặc Remati đều là hình thức của Shri Devi, một loại nữ thần phật giáo mật tông xuất hiện dưới hàng chục hình dạng khác nhau.
Nữ thần thường xuất hiện như một vị thần phẫn nộ với vai trò chính là một hộ pháp. Ngài ấy đặc biệt là một Người bảo vệ Trí tuệ đã giác ngộ.
Palden Lhamo là vị nữ hộ pháp duy nhất trong nhóm 8 hộ pháp lớn của Phật giáo. Ngài là nữ hộ pháp bảo vệ cho chánh pháp ở khắp mọi nơi, bao gồm cả đức Đạt Lai Lạt Ma và nhà nước Tây Tạng, thủ phủ Lhasa.
Ở Ấn Độ, Palden Lhamo còn được gọi là Shri Devi. Ngài còn là là nữ thần Okkin Tungri (Ukin Tengri) ở miền Bắc Mông Cổ. Ngài cũng được xem như là một hoá thân phẫn nộ của Saraswati (Biện Tài Thiên) vị nữ thần của sự học tập, của sự biện tài (ăn nói), và của âm nhạc. Một hoá thân khác của ngài là Chamudi, phối ngẫu của Yama. Lại cũng có thuyết nói ngài là phối ngẫu của Mahakala.
Là nữ hộ pháp duy nhất trong việc bảo vệ chánh pháp, thế nên tương truyền rằng những thứ vũ khí của ngài vốn là được các thần khác trao tặng.
- Hevajra tặng cho ngài hai hạt xúc xắc để định đoạt sinh mạng của con người
- Brahma tặng ngài chiếc quạt làm bằng lông công, từ Vishnu ngài được tặng hai chiếc đèn sáng rực ( giống như hai viên ngọc toả hào quang). Một chiếc thì được ngài cài trên đỉnh đầu, chiếc còn lại được ngài đeo vào ngang eo.
- Kubera, Thần Tài Bảo, đã cho ngài một con sư tử (trang sức hình sư tử) và được ngài đeo ở tai phải.
- Nanda, Thần rắn, đã ban cho ngài một con rắn ( trang sức hình con rắn) và được đeo ở tai trái của ngài.
- Từ Vajrapani (Kim Cang Thủ ) ngài nhận một chiếc búa sấm sét.
- Những vị thần khác ban tặng ngài một con la, được bao bọc bởi bộ da của quỷ Dạ Xoa, và có những con rắn độc quấn quanh bụng. Người ta hay thấy ngài cưỡi con la này đi du hành khắp muôn phương.
Palden Lhamo là một trong ba Hộ pháp của trường phái Gelug của Phật giáo Tây Tạng cùng với Mahakala và Yamantaka. Bà là vị thần phẫn nộ được coi là vị thần bảo hộ chính của Bhutan.
Palden Lhamo xuất hiện trong đoàn tùy tùng của Mahākāla Loại bỏ chướng ngại vật với tư cách là một nhân vật độc lập và được mô tả là “vị thần thành hoàng của Tây Tạng”, và “được tôn vinh trên khắp Tây Tạng và Mông Cổ, và người bảo vệ quyền năng của Đức Đạt Lai và Ban Thiền Lạt Ma và Lhasa.”
Chuyện Kể Về Palden Lhamo
Palden Lhamo có nghĩa là “Nữ thần vinh quang” và có thể có nhiều nữ thần bảo vệ và dakini phẫn nộ. Thông thường, Palden Lhamo đề cập đến phiên bản Gelugpa của cô ấy như một hiện thân phẫn nộ của Saraswati, hay còn được gọi là Magzor Gyalmo và Remati.
Magzor Gyalmo được cho là Remati trong thời gian cô kết hôn với Shinje (Yama), dưới hình dạng của vua Lanka, người cai trị các loài dudpos. Remati thề rằng nếu cô không chuyển đổi được nhà vua sang Phật giáo, cô sẽ kết thúc triều đại của ông.
Cô đã cố gắng nhiều lần để cải đạo anh ta để tránh việc giết hại các học viên pháp, nhưng không thành công cùng với việc con trai của họ được nuôi dạy để giết các Phật tử.
Không còn lựa chọn nào khác, cô đã giết con trai mình trong khi chồng cô đang đi săn. Cô ăn thịt con trai mình, uống máu anh ta với hộp sọ của anh ta làm kapala hoặc cốc, và lột da của anh ta để trở thành yên ngựa.
Vì vậy, cô ấy đã trốn thoát ra phía bắc. Ngay khi cô ấy rời đi trên một con la, nhà vua trở lại và phát hiện ra vụ giết con trai của mình. Tức giận, anh ta bắn vào mông con la mà Remati đang cưỡi.
Đáp lại, Remati đã chữa lành vết thương và biến nó thành một con mắt nói rằng, “Cầu mong vết thương của thú cưỡi của tôi trở thành một con mắt đủ lớn để quan sát hai mươi bốn khu vực,và có thể chính tôi là người khai trừ dòng dõi của những vị vua ác tính của Lanka!”
Ngài hay được thấy mang theo xác của con trai mình trên lưng con la đi khắp nơi. Đây là biểu tượng cho quyết tâm không dừng lại trước bất cứ điều gì để đem lại sự an bình cho tất cả.
Tại đây, cô đi qua Ấn Độ, Tây Tạng, Trung Quốc đến Mông Cổ và cuối cùng được cho là đã định cư trên núi, Oikhan ở miền đông Siberia.
Ngài hay được thấy mang theo xác của con trai mình trên lưng con la đi khắp nơi. Đây là biểu tượng cho quyết tâm không dừng lại trước bất cứ điều gì để đem lại sự an bình cho tất cả.
Thần thoại khác nói rằng khi cô chết, cô tái sinh trong địa ngục và chiến đấu theo cách thoát khỏi địa ngục, lấy trộm một túi bệnh và một thanh kiếm. Khi cô trốn thoát đến khu mộ địa, cô không thấy bình yên và cầu nguyện với Đức Phật cho một lý do để sống.
Đức Phật Vajradhara (Thích Ca Mật Tông) xuất hiện trước mặt cô và yêu cầu cô bảo vệ giáo pháp. Kinh ngạc, Remati đồng ý và do đó cô ấy trở thành Hộ pháp. Đoàn tùy tùng của cô bao gồm dakini đầu sư tử Simhamukha (Sengdongma) phía sau cô và dakini đầu makaravaktra cầm dây cương của con la trước Palden Lhamo. Bao quanh họ là 4 nữ thần của các mùa, 5 chị em của sự sống lâu và 12 nữ thần Tenma.
Thần Chú Palden Lamo
Jho Rakhmo Jho Rakhmo Jho Jho Rakhmo Tun Jho khalarakchenmo Rakhmo Adya Tadya Tun Jho Rulu Rulu Hum Jho Hum
Hay
Jo Ramun Jo Ramun Jo Jo Ramun Tun Jo Kala Raja Mara Ma Aja Taja Tun Jo Rolo Rolo Hung Jo Hung
Hay
Jo Ramo Jo Ramo Jo Jo Ramo Tunjo Kala Rachenmo Ramo Aja Daja Tunjo Rulu Rulu Hung Jo Hung
Hộ pháp Là Gì?
Hộ pháp (dharmapāla, dhammapāla) theo nhà Phật, nhất là phái Kim cương thừa (Vajrayāna) hay Thần Thánh là những vị thần bảo vệ Phật pháp và Phật tử. Những ai nguyện noi theo Thành tựu pháp (Sādhana) mà đọc câu Chân ngôn thì đều được các vị thần đó phù hộ.
Ngoài ra các vị Hộ Thế (Lokapāla), tức những vị thần (Thiện Thần) nguyện theo Phật cũng có chức năng như Hộ pháp.
Theo Phật Giáo Việt Nam
Phật giáo Việt Nam liệt kê nhiều vị thần như Phạm Thiên, Đế Thích, Kiên Lao, Địa Kỳ, Thiên Lý Nhãn, Thiên Lý Nhĩ… trong danh sách hộ pháp nhưng trong chùa thì có hai dạng chính.
Khuyến Thiện và Trừng Ác
Dạng Hộ pháp phổ biến là hai vị thần đối sánh thờ trong chùa mang tên Khuyến Thiện và Trừng Ác.
Đôi tượng Hộ pháp này thường tạc rất lớn, đầu cao chấm nóc nhà, bố trí ở hai bên tiền đường. Thần trang phục như võ tướng, đầu đội mũ trụ, mặc áo giáp, thân thể vạm vỡ, ngồi trên sư tử, có sẵn khí giới để bảo vệ đạo pháp.
Tượng thần Khuyến Thiện, tục gọi là “ông Thiện” thường tô mặt trắng, nét mặt thanh thản, đặt ở bên tay trái bàn thờ Phật (từ trong nhìn ra), tay cầm viên ngọc thiện tâm [Mani], là báu vật của Phật tử, khích lệ mọi người noi theo.
Tượng thần Trừng Ác thì tô mặt đỏ, đặt bên tay phải bàn thờ Phật; nét mặt thần giận dữ, lăm lăm vũ khí để trừng trị kẻ ác tâm như răn đe mọi người lánh xa con đường dẫn đến sa ngã.
Trong các chuyện tiền thân Phật thì các Ngài có tên là Thiện Hữu, Ác Hữu, hoặc La Đắc, Ma Pha La.
Theo Bát bộ Kim Cương
Dạng thứ hai là Bát bộ Kim Cương gồm tám vị thần cũng mặc võ phục nhưng không bài trí ở gần lối vào mà gần bàn thờ Phật vì đây là các vị thần linh có trách nhiệm bảo vệ Phật.
Tám vị kim cương đó lần lượt là:
- Thanh Trừ Tai
- Tích Độc Thần
- Hoàng Tùy Cầu
- Bạch Tịnh Thủy
- Xích Thanh Hỏa
- Định Trừ Tai
- Tử Hiền Thần
- Đại Lực Thần
Bát đại Hộ pháp của Phật giáo Tây Tạng
Một điều khó hiểu của Phật giáo đó là sự xuất hiện của các dạng hình tướng phẫn nộ, khủng khiếp… Có thể nói đó là những hình tướng xấu xí, ghê rợn đến sởn tóc gáy, và những hình tướng phẫn nộ này dường như đi ngược lại với tinh thần Phật Giáo.
Những hình tướng này không hề là biểu tượng cho cái ác hay là tượng trưng cho một ma lực nào đó…Mà thay vào đó chính là tượng trưng cho sự dũng mãnh của thực tại căn bản của vũ trụ nói chung, và tượng trưng cho tâm thức của con người nói riêng.
Ngoài ra đó còn là sự tiêu diệt những mê muội hư vọng của tâm thức con người, và mục đích của các vị còn là sự bảo hộ cho lòng tín, đức tin. Những hộ thần phẫn nộ là những tượng trưng cho sự chế ngự dục vọng, đánh bại những điều xấu xa.
Những hộ thần thường có thân hình chắc nịch, ngắn nhưng dày… nhiều vị còn có nhiều đầu nhiều tay. Màu sắc của khuôn mặt các ngài thường đựơc hay so sánh với màu mây, màu đá quý…
Đó là lý do tại sao trong các sadhanas hay có những đoạn so sánh một vị hộ thần màu đen như đám mây xuất hiện cuối trời, hay là xanh như màu ngọc lục bảo, hoặc trắng như một ngọn núi pha lê, màu vàng như vàng ròng, hoặc màu đỏ như là những tia nắng nơi ngọn núi san hô đỏ…
Trong các sadhanas cũng có nói rằng các ngài phủ đầy người một lớp tro của các buổi lễ trộn với dầu mè hoặc là phủ khắp người những vết mỡ, những đốm máu và mỡ người.
Khuôn mặt của các ngài thường có những biểu hiện như sau: miệng mở một cười giận dữ, từ đó ló ra những chiếc răng nanh – người ta hay nói những chiếc nanh đó được làm bằng đồng hoặc sắt. Những con mắt đỏ ngầu đầy máu biểu lộ cho sự phẫn nộ. Thường thì các ngài có 3 mắt.
Điều quan trọng nhất trong nhóm các hộ thần đó chính là nhóm 8 vị, được biết đến như là các hộ pháp chính của Phật giáo Tây Tạng (Bát Đại Hộ Pháp), các hộ pháp này được xem như những vị bồ tát, và các ngài có nhiệm vụ chiến đấu một cách không khoan nhượng với bất kì thế lực ma quỷ nào cũng như những kẻ thù của Phật giáo .
Bát đại Hộ pháp của Phật giáo Tây Tạng bao gồm :
- Yama (Dạ Ma)
- Mahakala (Đại Hắc Thiên)
- Yamantaka (Hàng Phục Dạ Ma)
- Kubera (Tài Bảo Thiên Vương)
- Hayagriva (Mã Đầu Minh Vương)
- Palden Lhamo (Bạch Lạp Mỗ)
- Tshangs pa (Phạm Thiên Trắng)
- Begtse
Xem thêm Thần Chú Palden Lhamo – 1 Trong Bát Đại Hộ Pháp Tây Tạng.
Watch more about The Palden Lhamo Mantra – 1 of 8 Primary Dharmapala.
Tổng hợp & dịch từ: Thư viện Hoa Sen, Tuyenphap, Wikipedia, Phật giáo Việt Nam, WeeklyBuddha
Đóng góp duy trì:
Hãy theo dõi chúng tôi:
Thanh Âm Thư Giãn + Meditation Meloady
Sagomeko Internet Marketing Services – Trà Sữa Đài Loan Hokkaido Vietnam – Du lịch Đất Mũi Cà Mau –Bracknell Berks Funeral celebrant – Try A Place – SEO My Business
Đọc thêm các bài viết chính:
Phật Thích Ca Mâu Ni, A Di Đà Phật, Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát, Văn Thù Bồ Tát, Địa Tạng Vương Bồ Tát, Phật Dược Sư Lưu Ly Vương Quang, Liên Hoa Sanh Guru Rinpoche, Lục Độ Phật Mẫu – Tara.Lục Tự Đại Minh Chú, Chú Đại Bi Tiếng Việt, Chú Đại Bi tiếng Hoa, Chú Đại Bi tiếng Phạn, Chú Lăng Nghiệm, Chú Tiêu Tai Cát Tường, Chú Vãng Sanh, Chú Om Ah Hum
Thanh Âm Thư Giãn chân thành cảm ơn.