[ad_1]
NSGN – Tạp chí Nam Phong ra mắt ngày 1-7-1917 và chia tay với độc giả vào cuối năm 1934 sau khi ra được 210 số. Buổi đầu là tạp chí ra hàng tháng (nguyệt san), sau trở thành bán nguyệt san năm 1934, Nam Phong đã phá kỷ lục sống lâu trong lớp các tạp chí Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX.
Người sáng lập, chủ nhiệm kiêm chủ bút là học giả Phạm Quỳnh (1892-1945), quê làng Lương Ngọc, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Bút danh Thượng Chi, TC, PC Hồng Nhân, Hoa Đường, Lương Ngọc.
Chủ bút phần Quốc ngữ: Phạm Quỳnh.
Chủ bút phần chữ Hán: Nguyễn Bá Trác.
Các Biên tập viên chính:
– Nguyễn Bá Trác (1881-1945) bí danh Tiêu Đầu;
– Nguyễn Hữu Tiến (1875-1941) bút danh Đông Châu, ĐC, NHT;
– Nguyễn Đôn Phục (1878-19) bút danh Tùng Vân;
– Nguyễn Bá Học (1858-1921);
– Nguyễn Trọng Thuật (1883-1940), bút danh Đồ Nam, ĐN, NTT.
– Lâm Tấn Phác (1906-1969) bút danh: Đông Hồ, Trác Chi;
– Nguyễn Mạnh Bổng (1897-1951), bút danh: Mân Châu, Ái Hoa, Hội Nhân, Thịnh Châu, Châu Nguyên, Nữ sinh Song Kim.
– Nguyễn Tiến Lãng, bút danh Hán Thu, là chủ nhiệm Nam Phong sau ngày Phạm Quỳnh vào Huế làm Đổng lý Văn phòng Ngự tiền năm 1932.
Năm tháng trôi qua, nhưng các đề mục đã ghi trong Nam Phong số đầu tiên không thay đổi:
– Luận thuyết;
– Văn học bình luận;
– Triết học bình luận;
– Khoa học bình luận;
– Văn uyển;
– Tạp trở;
– Thời đàm;
– Tiểu thuyết.
Mục lục bài viết phân theo các bộ môn sau: 1. Báo chí, tạp chí; 2. Triết học; 3. Tôn giáo; 4. Xã hội; 5. Chính trị; 6. Kinh tế; 7. Giáo dục; 8. Phong tục; 9. Ngôn ngữ; 10. Khoa học; 11. Mỹ thuật; 12. Văn học; 13. Lịch sử; 14. Địa dư.
Trong 31 bài ở mục Tôn giáo, có 14 bài viết về Phật giáo sau đây:
1- Phật giáo lược khảo, Phạm Quỳnh, đăng trên Nam Phong số 40, Octobre 1920, trang 263-302.
2- Chuyện Thái tử Sudàna, Hải Hồng dịch, số 85 ra Julllet 1924, tr.37-48.
3- Môn phái đạo Phật ở Tàu, Thượng Chi biên dịch, số 121, Septembre 1927, tr.215-225.
4- Tạp chí Paris, Phật giáo tổng luận, Thượng Chi dịch, số 142, Septembre 1929, tr.213-226.
5- Một bậc cao tăng nước Tàu: Đường Huyền Trang, Đông Châu dịch, số 142, ra Septembre 1929, tr.227-242.(còn nữa)
6- Một bậc cao tăng nước Tàu: Đường Huyền Trang, Đông Châu dịch, số 143, ra Octobre 1929, tr.374-387 (tiếp theo và hết).
7- Tưởng Duy Kiều, Khổng Tử với Thích Già, Đông Châu dịch, số 167, Novembre-Decembre 1931, tr.331-339.
8- Hồ Hữu Thâm, Tolstoi với Phật kinh, Nguyễn Hữu Tiến dịch, số 172, Mai 1932, tr.498-508.
9- Nhàn Vân Đình, Một bậc cao Tăng nước nhà: Sư cụ Cổ Lễ, số 174, Julllet 1932, tr.30-45.
10- Nguyễn Đôn Phục, Ni cô truyện (truyện làng Ni), số 177, Octobre 1932, tr.344-351.
11- Trần Ban Hội, Lịch sử Phật giáo nước Tàu, Nguyễn Hữu Tiến, số 178, Novembre 1932, tr. 492-498.
12- Nguyễn Trọng Thuật, Bình luận sách Khóa hư, số 189, Octobre 1933, tr.315-324.
13- Sở Cuồng, Phật giáo yếu luận, số 195, Mai 1934, tr.290-296.
14- Nguyễn Trọng Thuật, Phật giáo tân luận, số 208, ra 16-11-1934, tr.217-221 (còn nữa).
15- Tin về Phật giáo hội ở Hà Nội, số 209, ra 1-12-1934, tr.295-297.
16- Nguyễn Trọng Thuật, Phật giáo tân luận, số 209, ra 1-12-1934, tr.36-47 (278) (tiếp theo và hết).
Sau ngày đình bản, các cây bút chủ yếu của Nam Phong như: Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến, Đồ Nam Tử Nguyễn Trọng Thuật, Sở Cuồng Lê Dư… đã tham gia Hội Phật giáo Bắc Kỳ.
Chúng tôi xin giới thiệu với quý vị độc giả một số bài viết tiêu biểu nói trên.
Phật giáo lược khảo
Phật giáo lược khảo là thiên biên khảo về Phật giáo của Phạm Quỳnh dài ngót 40 trang đăng trên Nam Phong số 40 ra tháng 10 năm 1920, chia 3 phần: 1. Phật tổ sự tích; 2. Phật lý uyên nguyên; 3. Phật giáo lịch sử.
Phần thứ nhất xét về sự tích Đức Phật Thích Già Mâu Ni, theo khoa học mới và kinh sách cũ, cố phân biệt phần nào là sự thực, phần nào là truyện huyễn;
Phần thứ nhì xét về giáo lý đạo Phật, căn nguyên tự đâu, kết quả thế nào, duyên cách làm sao;
Phần thứ ba xét về đạo Phật phát nguyên ở Ấn Độ, rồi bành trướng ra nước ngoài thế nào, sang mỗi nước thay hình đổi dạng ra làm sao. Tiếp sau, tác giả khái quát lịch sử Phật giáo Trung Quốc mà thịnh nhất là thời Đường. Ông rút ra một nhận xét “Đạo Phật ở Trung Quốc thật là có cái nghị lực phi thường vậy. Tuy bọn học thức phần nhiều theo Nho, mà trong dân gian bao giờ cũng mộ Phật. Bởi lẽ đó nên mãi đến cận đại, phàm vua nào ra khai quốc cũng in lại bộ Tam Tạng, lấy làm việc cẩn trọng, hoặc là thành tâm, hoặc là chiều đời, chủ ý là để thu phục lấy dân tâm”. Cuối cùng Phạm Quỳnh giới thiệu lịch sử Phật giáo Việt Nam từ thời thuộc Tùy Đường trở đi đến thời Nguyễn sơ. Theo ông thì ba phần ấy tưởng cũng gồm được đại khái các điều cốt yếu về đạo Phật, phàm người trí thức phải biết. Còn bình phẩm đạo Phật hay, hay là dở, nên theo hay không nên theo, thì đó không phải là mục đích bài này. Tuy nhiên, ông nhận định: Từ đầu thế kỷ XVIII cả khoảng Lê mạt Nguyễn Sơ… cũng là bắt đầu hồi đạo Phật đã suy cho đến tận bây giờ vậy.
Có thể nói đây là bài khảo cứu tổng quát đầu tiên ở Bắc Kỳ về Phật giáo. Phạm Quỳnh là một học giả giỏi cả chữ Hán và tiếng Pháp, nhưng chúng tôi cho rằng có thể Phạm Quỳnh dựa chủ yếu vào sách báo phương Tây viết về Phật giáo nên bài khảo cứu của ông có nhiều chỗ phải bàn. Nhất là phần cuối, Phạm Quỳnh đã trích dẫn một đoạn trong cuốn I’Ennui de Bouddha của nhà văn người Pháp Gaston Riou phán đoán về đạo Phật mà ông cho là hay thay vì lời kết luận: “Đạo Phật là gì? Đạo Phật là câu hát não nùng để ru ngủ cho những dân chán đời ở cõi Đông phương, ru cho êm giấc mộng nghìn năm.
Mà câu hát ấy, từ hai mươi lăm thế kỷ đến giờ cũng đã từng ru cho biết bao nhiêu kẻ sầu não đau lòng!
Nào những người đa sầu đa cảm, ngán nỗi đời mà cam lòng đợi chết, nào những kẻ học giả thâm trầm, ca sự thế mà mơ màng tịch diệt, nên chắp tay mà vái lạy Phật Đà. Lại những người kia nữa, số nhiều biết bao nhiêu, sống ở đời mà ghét căm sự sống, khác nào như một phường kèn thảm, thổi sau một đám rước to, chạy quanh trên vũ đài thế giới, nên lên giọng mà ngợi khen thầy Mâu Ni đã đắc đạo. Thầy là tôn sư của các người. Dù giọng của các người căm tức mà ngạo mạn, hay than khóc mà nỉ non, thâm trầm mà trịnh trọng, hay nức nở mà kêu oan, bài than vãn cũng vẫn là một, mà bài ấy là Phật đã xướng lên…”.
Phật giáo yếu luận
Đây là bài viết của nhà nghiên cứu Sở Cuồng Lê Dư về những điểm mà ông cho là cốt tủy của Phật giáo, đăng trên tạp chí Nam Phong số 195 ra ngày 1 tháng 5 năm 1934.
1- Thuyết “Vạn hữu”.
2- Thuyết “Vô thủy vô chung”: vạn vật tự nhiên không sinh không diệt, không thêm không bớt.
3- Thuyết “Chư hành vô thường”: nguyên tắc của vũ trụ, vạn vật biến thiên (tức vận động).
4- Thuyết “Chư pháp vô ngã”: vạn vật trong vũ trụ đều theo nhân duyên mà sinh, theo nhân duyên mà diệt. Trong chúng ta không thể giữ được cái của ta, cái gì không y theo nhân duyên mà sinh diệt thì cái đó không còn ở trong cái thế gian này được, chỗ đó là cái chủ yếu trong thuyết vô ngã vậy.
5- Thuyết “Nhân quả báo ứng”. Cái niệm về nhân quả báo ứng là chỗ tư tưởng thiết yếu nhất của đạo Phật, nhưng gọi là có nhân thì có quả, thì tôn giáo nào trong khi bố giáo, tất dụng cái thuyết ấy, không chỉ một đạo Phật.
Thuyết nhân quả của đạo Phật lại cao hơn lên một tầng (so với thuyết nhân quả của khoa học) vì không phải chỉ nói ở thực hiện giới đâu, mà cái nhân quả ấy có thể làm ở trong lòng mình được. Thí dụ: người không biết mình, thì mình sinh ra cái lòng giận hoặc ở trong lòng mình có ghét người nào thì cứ để bụng mà không lộ ra ngoài mặt, nhưng vì có cái tà tâm đó mà tất cả cái quả báo về sau, đấy là cái thuyết nhân quả của đạo Phật.
Cái thuyết nhân quả của đạo Phật thật là đích xác không sai, nhưng nó biểu hiện ra từ những hiện tượng lớn ở trong vũ trụ cho đến nhỏ là sinh vật giới đều lan khắp cả, chúng ta chỉ sống được trong vòng 100 năm, không sao thấy hết hai đầu cái nhân quả ấy, thí dụ: ở hiện thế những người làm ác mà được phú quý vinh hiển; những người làm lành thì lại gặp sự không may. Những hiện tượng quái lạ ấy tai nghe mắt thấy, không sao kể hết ra được, thì tưởng là cái thuyết nhân quả không sao tin được, rồi sinh ra nghị luận này nọ là bởi cớ đó.
6- Thuyết luân hồi chuyển sinh: những chỗ cốt yếu nói về thuyết vạn hữu của Phật giáo như những điều kể trên. Chúng ta ở trong vũ trụ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã hoặc sinh ra hoặc diệt đi không biết bao nhiêu lần, luân hồi ở trong cái khổ sinh tử, quả như vậy có mãn túc không? Không thể nào vui vẻ về sự sinh tử ở trong cái thế gian này như vậy, không có cái đạo lý nào mãn túc ở trong cái trạng thái xã hội như thế. Chúng ta phải sử dụng hết cái sức của ta, có thể làm được, làm thế nào tiến ra cho khỏi cái bể khổ lớn sinh tử luân hồi đó, mà đến được cái cảnh đại an lạc thật, mà không có chỗ nào hơn chỗ ấy nữa. Cái sự mong mỏi đó chính là cái chỗ thường tình của mọi người. Vả chăng những nhân dân sinh ở chỗ phong thổ như phong thổ của nước Ấn Độ, tự nhiên có nhiều cái cảnh khổ sở, mà chán cái sinh hoạt ở trong thế giới, thì cũng không phải là sự vô lý. Ấy là cái đại nguyên nhân khuynh hướng về cái chủ nghĩa yếm thế của Phật giáo.
7- Cái tiêu chuẩn về điều thiện điều ác: chúng ta tu hành về đạo Phật, rồi ra khỏi cái cõi sinh tử, mà việc gì cũng thành lập được nhân quả, cho nên chúng ta có gì vẫn ở nơi hữu hạn giới, muốn tìm cho được cái nguyên nhân đó mà trừ đi, đấy là chỗ rất cần lắm.
8- Cái hoặc tình
Muốn cần cái nguyên nhân chúng ta lại bị hãm vào trong hữu hạn giới là tại chỗ hoặc tình. Chúng ta tự mình không nói rõ được cái chân lý do cái chỗ vọng kiến của mình hãm vào trong cõi mê mộng, cõi mê mộng đó do mình làm ra, rồi mình chịu lấy khổ, mà đến chỗ lầm đó, các tôn phái cũng mỗi phái nói một khác, không nhất định gì cả. Nói tóm lại, như trước đã kể mình không biết cái đạo lý chư hành vô thường, không biết cái lý chư pháp vô ngã, không rõ cái lý vô thủy vô chung, không rõ sao là nhân quả báo ứng, sao là luân hồi chuyển sinh, mà hãm vào cái tục kiến thường hữu, và lại còn chấp vào những việc ở hữu hạn giới, không thể tin được cái sự ở vô hạn giới mà gây ra những điều kể ra sai lầm sau: nào là lục thập nhị (62) kiến, nào là bách bát (108) kiến; nào là bát thập (80) sứ; nào là kiến ác tu ác, sa trần chi hoặc, nào là vô minh chi hoặc, nào là phiền não chướng, nào là sở tri chướng, thật là không biết bao nhiêu là lần, nhưng cầu chỗ gốc tại ba điều:
– Không biết cái nguyên tắc vũ trụ;
– Không biết có cái vô hạn giới;
– Do các cái mê ở trên nó dẫn dụ, mà thoát ra mình làm những điều ác.
Cho nên chúng ta không dứt bỏ cái nhìn ấy, để tu đạo lành, cho bước đến cái cõi Niết-bàn chân chính thì không được.
9- Tu hành
10- Niết-bàn
Kết luận
Phật giáo là một thứ tôn giáo dẫn chúng ta vào cõi Vô hạn giới khiến chúng ta được yên tâm lập mệnh. Chúng ta tín ngưỡng đạo Phật là muốn được yên tâm lập mệnh. Chúng ta tín ngưỡng đạo Phật là muốn được yên tâm lập mệnh được có cái kết quả thành Phật, ấy là phổ nguyện, và theo cái thuyết chư hành vô thường, thì có sự thay cũ đổi mới, nhân loại và xã hội tiến hóa, bởi đó mà ra, rất có ích cho thiên hạ quốc gia lắm. Nếu kẻ học đạo Phật mà chỉ cầu phúc, mong được phát phú, phát quý; kẻ quan sát đạo Phật, mà phê bình cho là trái với các tiêu chuẩn khoa học, thì đều là sự lầm cả.
Đạo Phật mà chúng ta trọng là trọng tại cái chỗ tinh thần, cái tinh thần từ bi bác ái, lo cứu vớt nhân loại ở trong cái bể khổ, chỗ đó là chỗ cốt gốc; nếu không xét vào cái chỗ đó thì thật là một hạng người không có cái não chất cái nhãn quan có thể trông thấy đến đạo Phật được.
[ad_2]