[ad_1]
Trong quá trình phát triển, triều đại nào cũng có những bối cảnh riêng, vì thế đặt một nhân vật lịch sử vào những biến động khách quan của thời cuộc, là cơ hội để trả lại cho lịch sử những điều gần với sự thật nhất. Hội thảo “Chúa – Bồ tát Nguyễn Phúc Chu (1675-1725) và sự nghiệp mở mang bờ cõi phát triển đất nước” đã phần nào làm được điều đó, bằng việc cung cấp nhiều nguồn tư liệu khác nhau, và dẫu còn những giới hạn trong đánh giá, song cũng đủ để thống nhất một số luận điểm quan trọng trong sự nghiệp của chúa Nguyễn Phúc Chu qua các tham luận và phát biểu, công bố tư liệu của đại biểu.
Cụ thể trong tiến trình mở cõi từ chúa Nguyễn Hoàng đến chúa Nguyễn Phúc Chu, các nhà nghiên cứu đã thống nhất được những điểm căn bản của quá trình này, đó là định hình được một cục diện chính trị, một đời sống văn hóa, tôn giáo dựa trên nền tảng tư tưởng đạo Phật, một xã hội no đủ, một chính sách linh hoạt, hài hòa và quan trọng nhất là một lãnh thổ được hình thành rõ nét, tương ứng với lãnh thổ Việt Nam hiện đại, bao gồm cả đất liền và các quần đảo trên biển Đông.
Quốc chúa Nguyễn Phúc Chu thọ Bồ tát giới tại gia, được ban pháp danh Hưng Long, đạo hiệu Thiên Túng. Thầy của chúa là Hòa thượng Thạch Liêm (Thích Đại Sán) thuộc dòng Tào Động Trung Hoa. Thừa hưởng truyền thống tín Phật của gia đình, nhận được sự truyền thừa của Hòa thượng Thạch Liêm, chúa Nguyễn Phúc Chu đã ý thức rất rõ việc thọ giới để trở thành hành giả thực thụ trên con đường hành Bồ tát đạo, với mục tiêu lấy hết thảy chúng sinh làm đối tượng phục vụ.
Nói như nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu về chính sách của chúa Nguyễn Phúc Chu: “Việt Nam hóa các dân tộc khác, tín ngưỡng khác và không chỉ thương người mình mà còn thương người của dân tộc khác, đó là tinh thần của Phật giáo Việt Nam”. Vì thế chỉ trong 34 năm trị quốc, chúa Nguyễn Phúc Chu đã vận dụng triết lý sống của Phật giáo vào việc mở mang bờ cõi, bình định được cả một vùng đất rộng lớn trải dài từ Khánh Hòa đến Hà Tiên và vùng Tây Nguyên, đặc biệt là khẳng định chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa (như đã được ghi trong Hải ngoại kỷ sự của Hòa thượng Thích Đại Sán).
Bản chất của chế độ phong kiến là “phong tước, kiến địa”, thông qua việc phân phong, cắt đặt chức vụ, cũng như chiếm lĩnh đất đai. Vì thế xuất hiện các dòng họ cát cứ, sau đó lớn mạnh và tổ chức thành các vương triều nhỏ, truyền ngôi theo huyết thống. Các vương triều nhỏ này trong quá trình tồn tại, họ phải củng cố và tổ chức quân đội, cũng như cắt đặt bộ máy hành chính để điều hành đất nước.
Tuy nhiên, trước sức ép đánh chiếm từ các quốc gia lớn, để tránh sự diệt vong, quá trình “quy tâm” đã diễn ra, nên các vương triều nhỏ buộc phải thần phục và cống nạp các quốc gia lớn. Sự thần phục này chỉ mang tính hình thức, và họ chỉ chờ đợi thời cơ nước khác suy yếu là tiến hành những cuộc chinh phục bằng quân sự.
Chính quá trình nội chiến (chiến tranh giữa các dòng họ), ngoại xâm (chiến tranh giữa các nước lớn nhỏ) mà một số vương triều trở nên hùng mạnh, nhưng cũng có không ít vương triều chịu cảnh diệt vong. Đây là một thuộc tính khách quan của chế độ phong kiến, vì thế không cần phải né tránh khi bàn về vấn đề này, bởi thực tế khi ấy, biên giới quốc gia không hề được xác định một cách cụ thể như ngày nay.
Chúa Nguyễn Phúc Chu bình định phương Nam trong một bối cảnh lịch sử hết sức đặc biệt. Khi ấy ở Đàng Ngoài, vua Lê chỉ là bù nhìn, còn thực quyền rơi vào tay chúa Trịnh. Ở Đàng Trong, chúa Nguyễn vẫn được nhìn dưới con mắt là những loạn thần, phi chính thống, không chỉ đối với hoàng thất nhà Lê mà còn đối với Trung Hoa. Bởi Trung Hoa lúc đó chỉ công nhận nhà Lê là đại diện duy nhất cho Đại Việt.
Tuy nhiên, trong bối cảnh nhà Minh (người Hán) đánh mất quyền cai trị, để đất nước vào tay nhà Thanh (người Mãn Châu – một bộ tộc nhỏ của Trung Hoa), những bại thần của nhà Minh như Dương Ngạn Địch, Mạc Cửu đã phải trốn chạy vào Đàng Trong, tạo nên những thế cuộc mới, phần nào uy hiếp đến sự ổn định của các vương triều nhỏ tại đây. Sự xuất hiện của lực lượng này, dẫu chỉ là những bại thần của nhà Minh, nhưng vẫn có những thuyết phục nhất định trước triều đại nhà Thanh, một triều đại được lập nên bởi một bộ tộc nhỏ, người Hán.
Trước tình thế ấy, các chúa Nguyễn từ chúa Nguyễn Hoàng, chúa Nguyễn Phúc Tần… đến chúa Nguyễn Phúc Chu đã khéo léo thu phục những cánh quân đến từ Trung Hoa này để ổn định tình hình tại Đàng Trong. Việc các chúa tiếp nhận hai dòng thiền Tào Động và Lâm Tế trực tiếp từ Trung Hoa, với các vị thiền sư nổi tiếng như Nguyên Thiều, Thạch Liêm cũng đã chiếm được cảm tình của một bộ phận lưu dân là người Hoa.
Sở dĩ nói đây là một bối cảnh đặc biệt, vì các vương triều tại vùng đất này đã phải đối đầu trực tiếp với các lực lượng “không chính danh”, đang không còn lựa chọn nào khác hơn là phải Nam tiến. Cho nên khi các lực lượng “không chính danh” này xuất hiện đã vô tình biến những vùng đất ở phương Nam vào thế tranh chấp phi chính thống và phi truyền thống.
Có nghĩa rằng, trước đây, lúc mạnh lúc yếu, Chiêm Thành luôn có những đối đầu truyền thống với Đại Việt và sự “phân xử” vẫn thuộc về Trung Hoa. Vì vậy, nếu bình định phương Nam trên danh nghĩa của một quốc gia thống nhất, một bộ máy cai trị Nho giáo, ảnh hưởng sâu đậm bởi Tống Nho như trước đó Lê Thánh Tông và một số người khác đã làm, thì chắc chắn không chỉ khó tiến đánh mà còn khó giữ, bởi Trung Hoa khi ấy không muốn Đại Việt lớn mạnh, nhất định sẽ can thiệp, tìm cớ chinh phạt, rất có thể xung đột chiến tranh, xung đột văn hóa, tôn giáo giữa Việt và Chiêm sẽ khó khăn và dai dẳng hơn rất nhiều.
Chúa Nguyễn Phúc Chu đã vận dụng tư tưởng Phật giáo vào việc trị nước và mở mang bờ cõi với một nhãn quan chính trị sắc bén. Việc lựa chọn Phật giáo trong môi trường đa văn hóa cần được đặt trong tình thế đối kháng Trung Hoa (vùng ảnh hưởng của Trung Hoa), bởi những vương triều này từ lâu đã ảnh hưởng sâu đậm bởi văn hóa và văn minh Ấn Độ.
Quan niệm chúng sinh bình đẳng của Phật giáo đã phần nào xóa mờ tương quan cai trị – bị trị. Thế nên, điều quan trọng trong quá trình Nam tiến của các chúa Nguyễn không chỉ ở việc dụng binh mà còn ở nhận thức về việc có giữ được đất hay không, giữ bằng cách nào để có thể khoan sức dân và không gây nên những thù hận sắc tộc, tôn giáo về sau. Việc dụng binh đồng thời với việc tiếp nhận Phật giáo Trung Hoa khi ấy, không phải là quá trình ly khai với nền văn hóa truyền thống, mà chính tiếp xúc ấy lại là một cơ duyên lớn để nhà lãnh đạo như Nguyễn Phúc Chu có thể dễ dàng dung hòa lợi ích và chinh phục được những bại binh của nhà Minh bỏ nước vào Đàng Trong, phục vụ cho công cuộc bình định phương Nam.
Có thể nói, Hội thảo “Chúa – Bồ tát Nguyễn Phúc Chu (1675-1725) và sự nghiệp mở mang bờ cõi phát triển đất nước” lần này đã thống nhất khẳng định chúa Nguyễn Phúc Chu là người ghi dấu ấn đậm nét nhất trong tiến trình mở mang bờ cõi, phát triển đạo Phật tại Đàng Trong, bổ túc cho những cách nhìn chưa thật công bằng và khách quan liên quan đến sự nghiệp của các chúa Nguyễn.
Cho đến nay, mảnh đất từ phía Nam Hoành Sơn trở vào vẫn phù hợp với nhận thức cho một tiến trình thương mại vươn ra biển lớn và không thể không gợi nhắc đến những tính cách Ấn, thậm chí linh hồn Ấn như một sự đối kháng Trung Hoa mạnh mẽ. Lịch sử Việt Nam luôn đầy những biến động thăng trầm, song nói như nhà thơ Nguyễn Duy: “Bao triều vua phế đi rồi. Người yêu nước chẳng mất ngôi bao giờ”.
[ad_2]