[ad_1]
NSGN – Ngài Huệ Năng (638-713) là một bậc cao tăng của thiền lâm Đông Độ. Cuộc đời cũng như tư tưởng của ngài là nguồn chất liệu và xúc cảm thiêng liêng để hình thành nên những pháp hành tu tập, những tác phẩm đặc thù cũng như khai mở những truyền thống sơn môn đa dạng của Phật giáo Bắc truyền, mà trong số đó đã truyền thừa đến Việt Nam.
Từ những giai thoại cũng như những tư liệu khả tín về cuộc đời của ngài, đã chuyển tải nhiều nội dung tưởng chừng nghịch lý. Ở đây, dựa trên tư liệu kinh điển từ Hán tạng cho đến Nikāya, chúng tôi cố gắng thuyết minh sự hợp lý từ những điều nghịch lý, cũng như chỉ ra tính tất yếu từ cuộc đời của ngài, đó là tiến trình giác ngộ. Việc lạm bàn năng lực chứng ngộ của một bậc cao tăng của một kẻ chưa vượt bờ, cũng khiên cưỡng như phương cách cố gắng mô tả mặt trời bằng ánh sáng lúc hừng đông. Do vậy, bằng sự cẩn trọng và cân nhắc, chúng tôi sẽ tiếp cận tiến trình ngộ đạo của ngài Huệ Năng xoay quanh ba sự kiện: Giữa phố nghe kinh; Nửa đêm thọ pháp và Những dấu hiệu của bậc Thánh.
Giữa phố nghe kinh
Theo kinh Pháp bảo đàn, khi còn tại gia, ngài Huệ Năng làm nghề đốn củi, kính phụng mẹ già. Lúc bấy giờ, có khách mua củi và yêu cầu gánh đến tận nhà, khách nhận củi trao tiền, Huệ Năng liền rời đi, khi ra khỏi cửa liền thấy một người đang tụng kinh, vừa nghe lời kinh, tâm Huệ Năng liền khai ngộ1.
Sự kiện vừa nghe một câu kinh liền chợt khai ngộ của ngài Huệ Năng không phải là trường hợp đầu tiên trong lịch sử kinh điển Phật giáo. Theo tác phẩm Cullavagga, khi lần đầu tiên nghe tôn hiệu Đức Phật, trưởng giả Cấp-cô-độc (Anāthapiṇḍika) đã chấn động tâm tư nên đã hỏi lại ba lần, là nhân duyên sơ khởi để trưởng giả quy kính Đức Phật và phát nguyện hộ trì Tam bảo sau đó2. Tương tự, ngài Xá-lợi-phất (Sārīputta) khi vừa hội kiến Tỳ-kheo Assaji và được nghe một bài kệ ngắn, đã rúng động tâm can, khai mở pháp nhãn (dhammacakkhuṃ udapādi), nên đã tìm Phật và phát nguyện xuất gia3.
Tham chiếu kinh điển cho thấy, trường hợp khi vừa nghe kinh, tâm liền khai ngộ của ngài Huệ Năng, là dấu hiệu cho thấy ngài Huệ Năng đã thành tựu phẩm vị Chuyển tánh.
Bậc Chuyển tánh, có khi được dịch là Chuyển tộc, Chuyển biến, cũng có khi được gọi là bậc Chân nhân (Sappurisa). Theo kinh Tăng chi bộ4, bậc Chuyển tánh là một trong chín hạng người (A.iv,373), hoặc mười hạng người (A.v,23)5 ở đời đáng được cung kính, cúng dường và tôn trọng. Kinh Tăng nhất A-hàm ở Hán tạng cũng mang ý nghĩa tương tự nhưng với tên gọi là Chủng tánh nhân6. Nguyên tác ở kinh tạng Pāli ghi là Gotrabhū. Đây là giai vị chuyển từ phàm sang Thánh, chuẩn bị bước vào Thánh đạo, phẩm vị này tuy thấp nhưng sở hữu một trí tuệ thù thắng và có phước quả.
Về năng lực trí tuệ, ở phẩm vị Chuyển tánh có một trí tuệ hơn người. Tác phẩm Phân tích đạo (Paṭisambhidāmagga), đã nêu ra những phẩm tính cụ thể của tuệ chuyển tánh (Gotrabhū-ñāṇa), là tuệ thứ 13 trong 16 loại thiền tuệ minh sát. Tuệ chuyển tánh (Gotrabhū-ñāṇa) có công năng đưa một chúng sanh từ địa vị phàm phu (Putthujjana) sang bậc Thánh cao quý (Ariyāpuggala).
Căn cứ theo kinh Tương ưng (S.iii,225), Đức Phật dạy rằng: Này các Tỳ-kheo, ai có lòng tin, có tín giải đối với những pháp này; vị ấy được gọi là Tùy tín hành (Dhammānusārī), đã nhập Chánh tánh (Okkanto sammattaniyāmaṃ), đã nhập Chân nhân địa (Sappurisabhūmiṃ okkanto), đã vượt phàm phu địa (Vītivatto puthujjanabhūmiṃ). Vị ấy không có thể làm những hành động gì, do làm hành động ấy phải sanh vào địa ngục, bàng sanh, ngạ quỷ; một vị không có thể mệnh chung mà không chứng quả Dự lưu7. Ở đây, quá trình thành tựu Chân nhân địa (Sappurisabhūmiṃ) theo kinh Tương ưng cũng tương đồng với Chủng tánh địa (種性地) như kinh Tỳ-ni-mẫu ở Hán tạng đã chỉ ra8.
Với ngài Huệ Năng, từ một lần chợt nghe kinh Kim cang trong phố, tâm ngài rơi vào trạng thái ngưng thần (凝神)9, mọi vọng tưởng khi ấy hoàn toàn dứt bặt10, khoảnh khắc đó đã dẫn đến sự khai mở tuệ giác của một bậc Chân nhân (Sappurisa). Vì lẽ, với một người quê mùa và không biết chữ, nhưng đoạn đối thoại khi sơ ngộ giữa ngài và Ngũ tổ Hoằng Nhẫn, đã cho thấy mặt trời trí tuệ đã thực sự hiện hữu trong tâm của ngài Huệ Năng:
Ngũ tổ hỏi: Ông từ phương nào đến, và muốn cầu thỉnh điều gì? Huệ Năng đáp: “Đệ tử là dân Tân Châu ở Lãnh Nam, từ xa về lễ Tổ, chỉ cầu làm Phật chứ không mong gì khác”. Tổ nói: Ngươi dân Lãnh Nam, ở chốn quê mùa thì làm sao kham thành Phật? Huệ Năng đáp: Người tuy có Bắc-Nam, nhưng Phật tánh vốn không phân Nam-Bắc, thân quê mùa này cùng với thân Hòa thượng có gì sai khác? Và Phật tánh giữa con và Hòa thượng có gì sai biệt nhau?11.
Về phương diện phước quả, theo kinh Tăng chi bộ đã dẫn ở trên, một khi thành tựu phẩm vị Chuyển tánh (Gotrabhū), cũng như đã vượt phàm phu địa (Vītivatto puthujjanabhūmiṃ), thì người đó luôn được cung kính, cúng dường và tôn trọng. Chính vì vậy, từ khi chợt ngộ do được nghe kinh Kim cang, ngài Huệ Năng luôn được nhiều người quan tâm hỗ trợ, như việc có người vô danh tặng cho mười lạng bạc để chu cấp đời sống cho mẹ già, cũng như hỗ trợ các chi phí thường nhật của đời sống tại gia12, để ngài an tâm đến Hoàng Mai cầu pháp với Ngũ tổ, là những sự việc hoàn toàn có cơ sở từ kinh điển.
Như vậy, kể từ thời điểm chợt ngộ khi nghe một câu kinh, tuy chưa đạt được quả vị nào trong tứ quả Thanh văn, nhưng ngài Huệ Năng đã lìa khỏi địa vị phàm phu và bước lên Chân nhân phẩm vị (Sappurisabhūmiṃ).
Nửa đêm thọ pháp
Khi được theo chúng tu học dưới sự hướng dẫn của ngài Hoằng Nhẫn tại Hoàng Mai, ngài Huệ Năng phải trải qua tám tháng chấp lao phục dịch ở khu vực nhà bếp. Một lần Ngũ tổ chợt ghé qua nơi ấy, bằng phong cách thiền ngữ đặc thù, ngài hỏi: Gạo đã trắng chưa?13. Huệ Năng đáp: Gạo trắng đã lâu, chỉ còn việc giần, sàng14. Từ câu trả lời này, ngài Hoằng Nhẫn biết rằng tâm cơ của ngài Huệ Năng đã đến thời khai ngộ, nên đã dặn riêng đến thất của ngài vào canh ba đêm ấy.
Giữa bốn bề tĩnh mịch đêm khuya, ngài Hoằng Nhẫn đã biệt truyền kinh Kim cang cho ngài Huệ Năng, khi nghe đến câu: Không nên trú tâm, để tâm dính mắc, bất cứ pháp nào15, ngài Huệ Năng liền đại ngộ (大悟). Ngay khi đó, ngài Huệ Năng liền trình với Ngũ tổ sở chứng của mình qua bài kệ:
Đâu ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh,
Đâu ngờ tự tánh vốn không sanh diệt,
Đâu ngờ tự tánh vốn tự đầy đủ,
Đâu ngờ tự tánh vốn không dao động,
Đâu ngờ tự tánh hay sanh muôn pháp!
(HT.Thích Thanh Từ dịch).
Sau đó, Ngũ tổ đã ấn chứng và truyền y bát cho ngài Huệ Năng làm Tổ thứ sáu.
Như vậy, kể từ thời điểm này ngài Huệ Năng đã chính thức đảm nhận vai trò Tổ vị của thiền lâm Đông Độ. Ở đây, điểm cần làm sáng tỏ là quả vị giác ngộ của ngài Huệ Năng trong thời điểm ấy ở phẩm vị nào?
Trước hết, người lãnh ngộ được chân lý, Hán tạng gọi là bậc kiến pháp (見法, diṭṭhadhamma) hoặc khai pháp nhãn (開法眼, dhammacakkhuṃ udapādi).
Theo kinh Xuất diệu, khi được pháp nhãn, thì chứng quả Tu-đà-hoàn16 tức quả vị Dự lưu.
Theo luận Du-già-sư-địa, có mười điều lợi ích khi được pháp nhãn17. Luận ghi:
Lại nữa, xa trần lìa cấu, ở trong các pháp, lúc được pháp nhãn, nên biết tức được mười thứ thắng lợi. Đó là:
1- Nơi bốn Thánh đế đã khéo thấy rõ, nên gọi là thấy pháp.
2- Theo đấy, đạt được một loại quả Sa-môn, nên gọi là đắc pháp.
3- Đối với chỗ đã chứng đắc, có thể tự nhận biết rõ: Ta nay đã dứt hết nghiệp nơi ba nẻo ác. Ta đã chứng đắc quả Dự lưu cho đến nói rộng. Do như thế nên gọi là biết pháp.
4- Được bốn chứng tịnh, đối với Phật Pháp Tăng nhận biết đúng như thật, nên gọi là kiên pháp khắp.
5- Đối với chỗ tự chứng đắc không lầm lạc.
6- Đối với chỗ chứng đắc của kẻ khác không nghi.
7- Lúc tuyên thuyết giáo pháp tương ưng với Thánh đế, không dựa vào duyên khác.
8- Không quán xét về hình tướng cùng ngôn thuyết của kẻ khác. Ở trong Chánh pháp Tỳ-nại-da này, hết thảy luận khác đều không thể chuyển.
9- Ký biệt về tất cả chỗ chứng đắc, giải thoát đều là vô sở úy. 10- Do hai nhân duyên nên tùy nhập Thánh giáo. Tức là thế tục chân chánh cùng đệ nhất nghĩa.
(Cư sĩ Nguyên Huệ dịch)18.
Bên cạnh đó, kinh Tăng chi bộ (A.iii,441) cũng nêu ra sáu điều lợi ích khi chứng được quả vị Dự lưu. Kinh ghi:
1. Có sáu lợi ích, này các Tỳ-kheo, khi chứng ngộ quả Dự lưu. Thế nào là sáu?
2. Sự quyết định đối với diệu pháp không có bị thối đọa; không có bị đau khổ; làm các việc bị sanh tử hạn chế; thành tựu trí tuệ; không cùng chia sẻ với các dị sanh; nguyên nhân và các pháp do nhân sanh được khéo thấy19.
Như vậy, theo luận Du-già-sư-địa, kể từ khi đạt được quả vị Dự lưu thì vị ấy có năng lực thấy rõ bốn Thánh đế và thuyết pháp tương ưng với Thánh đế. Khảo sát bài kệ chứng ngộ của ngài Huệ Năng chứa đựng nhiều chất liệu phù hợp với Kinh tạng.
Trong bài kệ, khái niệm cơ bản được đề cập chính là yếu tố tự tánh. Theo kinh Lăng-già-a-bạt-đa-la-bảo, quyển hai, thì tự tánh là một cách biểu đạt khác của Niết-bàn20. Khi đối chứng ba mươi từ đồng nghĩa về Niết-bàn trong kinh Tương ưng bộ (S.iv,360)21, thì bài kệ này có nhiều điểm tương đồng.
Đơn cử, khi nói tự tánh vốn tự thanh tịnh, tức đề cập đến phương diện Thanh tịnh (Visuddhi) của Niết-bàn. Khi nói: tự tánh vốn không sanh diệt, tức là đề cập đến phương diện Bất tử (Amatam) của Niết-bàn. Khi nói: tự tánh vốn tự đầy đủ, tức đề cập đến sự Đầy đủ thái bình (Khemam) của Niết-bàn. Khi nói: Khi nói: tự tánh vốn không dao động, tức là đè cập đến yếu tố Thường hằng (Dhuvam) của Niết-bàn. Khi nói: tự tánh hay sanh muôn pháp, tức là đề cập đến yếu tố Chân lý (Saccam) của Niết-bàn. Chân lý của Niết-bàn cũng chính là không tính. Theo Trung luận: nhờ có nghĩa không này mà các pháp được thành tựu22. (Còn tiếp)
Chúc Phú
_____________
(1) 大正藏第 48 冊 No. 2008 六祖大師法寶壇經. Nguyên văn: 時, 有一客買柴, 使令送至客店; 客收去, 惠能得錢, 却出門外, 見一客誦經. 惠能一聞經語, 心即開悟.
(2) Cullavagga, chương Sàng tọa, đoạn 241, Câu chuyện gia chủ Anāthapiṇḍika: Nghe danh Đức Phật, Tỳ-kheo Indacanda dịch.
(3) Mahāvagga, chương trọng yếu, đoạn 64, Câu chuyện về Sārīputta và Moggallānam Câu chuyện về Trưởng lão Assaji, Tỳ-kheo Indacanda dịch.
(4) Kinh Tăng chi bộ, tập 2, HT.Thích Minh Châu dịch, Nxb Tôn Giáo, 2015, tr.454.
(5) Kđd, tr.545.
(6)大正藏第 02 冊 No. 0125 增壹阿含經, 卷第四十,九眾生居品,七.
(7) Kinh Tương ưng bộ, tập 2, HT.Thích Minh Châu dịch, Nxb Tôn Giáo, 2013, tr.65.
(8)大正藏第 24 冊 No. 1463 毘尼母經, 卷第一. Nguyên văn:云何名種性地?有人在佛邊聽法,身心不懈念念成就,因此心故豁然自悟得須陀洹.
(9) 大正藏第 50 冊 No. 2061 宋高僧傳, 卷第八, 唐韶州今南華寺慧能傳.
(10)大正藏第 04 冊 No. 0211 法句譬喻經,卷第二,喻華香品. Nguyên văn: 凝神斷想自致得道.
(11)大正藏第 48 冊 No. 2008 六祖大師法寶壇經.
(12)大正藏第 48 冊 No. 2008 六祖大師法寶壇經. Nguyên văn: 乃蒙一客,取銀十兩與惠能,令充老母衣糧.
(13)大正藏第 48 冊 No. 2008 六祖大師法寶壇經. Nguyên văn: 米熟也未.
(14)大正藏第 48 冊 No. 2008 六祖大師法寶壇經. Nguyên văn: 米熟久矣,猶欠篩在.
(15)大正藏第 48 冊 No. 2008 六祖大師法寶壇經. Nguyên văn: 應無所住而生其心.
(16)大正藏第 04 冊 No. 0212 出曜經, 卷第二. Nguyên văn: 得法眼淨成須陀洹.
(17)大正藏第 30 冊 No. 1579 瑜伽師地論, 卷第八十六. Nguyên văn: 於四聖諦已善見故.說名見法.
(18) Luận-du-già-sư-địa, tập 4, Nguyên Huệ dịch, Nxb Hồng Đức, 2013, tr.216-217.
(19) Kinh Tăng chi bộ, tập 2, HT.Thích Minh Châu dịch, Nxb Tôn Giáo, 2015, tr.163.
(20)大正藏第 16 冊 No. 0670 楞伽阿跋多羅寶經, 卷第二. Nguyên văn: 佛告大慧:我說如來藏,不同外道所說之我. 大慧!有時說空, 無相, 無願, 如, 實際, 法性, 法身, 涅槃, 離自性, 不生不滅, 本來寂靜, 自性涅槃, 如是等句, 說如來藏已.
(21) Kinh Tương ưng bộ, tập 2, HT.Thích Minh Châu dịch, Nxb Tôn Giáo, 2013, tr. 406-408.
(22) 大正藏第 30 冊 No. 1564 中論, 卷第四. Nguyên văn: 以有空義故,一切法得成.
[ad_2]
Source link