[ad_1]
NSGN – Sợ là một cảm xúc khó chịu phát khởi chủ yếu từ lòng tham. Tham và sự bám chấp là nhân cho nhiều thứ bất thiện, phiền não và ác nghiệp trong đời. Vì hai thứ này mà chúng ta lang thang trong vòng luân hồi sinh tử (samsāra). Ngược lại, tâm vô úy, không sợ hãi, là trạng thái của sự bình an, tĩnh lặng tuyệt hảo, và là thứ ân sủng cao thượng nhất mà tất cả chúng ta có thể đạt được.
Dĩ nhiên, tất cả chúng sanh đều trải nghiệm sợ hãi. Họ sợ hiện tại, quá khứ hay tương lai. Mọi người đều được gọi là chúng sanh (satta) vì tất cả đều chấp vào ngũ uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành và thức. Khi nào ta còn bám chấp vào năm uẩn này, ta còn sợ. Chỉ có các bậc A-la-hán là hoàn toàn thoát khỏi sự sợ hãi. Họ đã đạt được trạng thái vô úy (không sợ hãi). Đó là lý do tại sao họ được gọi là asatta.(1) Chúng ta bám vào không chỉ năm uẩn mà còn với nhiều thứ vật chất hay tinh thần quanh ta. Do đó, khi nào ta còn bám víu, chấp giữ vào vạn vật, ta không tránh khỏi sợ hãi.
Tại sao sợ?
Bài viết này nhằm làm rõ quan điểm Phật giáo về sợ hãi và phương cách làm thế nào để đạt được trạng thái vô úy (không sợ hãi). Nếu ta có thể quán sát và hiểu được tâm lý của mình ngay giờ phút này, ta sẽ thấy rằng tất cả đang như con nhện bị vướng vào chính mạng lưới của mình. Chúng ta dệt những mạng bám víu, hoài vọng để rồi bị mắc kẹt trong đó. Chúng ta đau khổ vì sợ bị mất mát và sợ nhiều điều khác nữa về bản thân và mọi thứ chung quanh mình. Ví dụ, như ở phương Tây, nhiều bậc cha mẹ có những nỗi sợ hãi như sợ con cái sẽ dọn ra riêng khi đủ 18 tuổi, hoặc công việc làm có bền vững, hay tiền nhà, tiền nợ, hóa đơn thẻ tín dụng, vân vân, tất cả không dừng góp phần gây phiền não, lo lắng cho họ. Ngược lại, con cái cũng lo cho sự an toàn của cha mẹ, như sợ lão hóa, bệnh tật, và cái chết. Rồi các cặp vợ chồng có thể lo sợ rằng người phối ngẫu sẽ bỏ mình đi bất cứ lúc nào, vì một lý do nào đó. Tương tự, có nhiều yếu tố khác góp phần vào việc gây lo sợ cho con người. Tâm sợ hãi không tự phát khởi, mà thường đi chung với các yếu tố khác như hoài nghi, định kiến, ganh tỵ, thông tin giả, và sân hận.
Nỗi sợ hãi lớn nhất
Trong cuộc sống hàng ngày, đa số chúng ta sợ phải xa cách người thân một cách tạm thời hay vĩnh viễn. Đức Phật đã dạy: “Xa cách người thân là khổ”. Không chỉ là sự chia cách, mà cả việc lo nghĩ đến tương lai hay quá khứ, dựa trên các trải nghiệm mà họ có, nhiều người phải trải qua những đau khổ cùng tột, cùng lo lắng, bất an. Chính vì họ không nghĩ đến hay không sẵn sàng để chấp nhận sự thật là tất cả sinh vật hay thực vật đều vô thường (anicca), nên họ lo sợ, khổ đau.
Đức Phật đã dạy, không có gì là chắc chắn hay vững bền. Nói cách khác, không có gì còn mãi. Đó là một trong những giáo lý căn bản của Phật giáo. Phần đông chỉ biết trôi theo dòng đời, nhưng bản thân họ không biết mình đang trôi nổi. Giáo lý của Đức Phật dạy ta không chỉ trôi theo dòng sông hiện hữu, mà phải nỗ lực thoát ra khỏi dòng sông hiện hữu, đi đến trạng thái vô hữu (non-existence), nơi không còn chút sợ hãi, rầu lo, oán thán, đau xót hay thất vọng nào vì đó là vô hữu. Những ai đã trải nghiệm được điều đó sẽ tận hưởng an lạc.
Sợ chết
Đức Phật đã dạy: “Tất cả chúng sanh đều chết, nhưng chết không phải là kết thúc mọi thứ. Chết chỉ là sự chấm dứt của một kiếp sống”. Từ đó, chúng sanh sẽ đi theo nghiệp mà mình đã tạo ra khi còn sống trên thế gian. Tất cả chúng ta đều sợ khi đối mặt với cái chết. Đúng thế, đối với người thế gian, nỗi sợ lớn nhất là cái chết. Đó là lý do ngay chính Đức Phật cũng đã nói: “Ai cũng sợ đau; ai cũng sợ chết. Hãy đặt mình vào chỗ của người khác để không giết hại hay khiến người sát hại”.(2)
Tuy nhiên, nếu ta có chuẩn bị thì ta có thể đối mặt với cái chết một cách can đảm. Đức Phật dạy rằng để làm được điều đó, ta phải vun trồng và phát triển Chánh niệm. Đây cũng là cách để ta đạt được trạng thái vô úy.
Làm thế nào để đối mặt với những hoàn cảnh căng thẳng, hiểm nguy
Có câu cổ ngữ rằng: “Mỗi đám mây đen mang theo tia chớp bạc”. Ngoài việc vượt lên trên nỗi sợ chết, những lời dạy của Đức Phật cũng giúp ta thấy được các kết quả hay khía cạnh tích cực đối với các hoàn cảnh nguy hiểm, đáng sợ mà ta gặp phải trong đời sống hàng ngày. Với nỗi lo sợ về những bấp bênh trong tương lai đối với công việc làm, nợ nần, việc học hành, thi cử của con cái v.v…, khiến đêm ngày ta phải khổ đau với vô vàn sợ hãi mới mong đạt được những thứ được coi là mục tiêu của mình. Tuy nhiên, có những nỗi sợ hãi không lường trước có thể bất ngờ phát sinh và làm tan vỡ lâu đài hy vọng của ta. Ta có thể làm được gì đây? Không gì ngoài việc trở về lại với thực tại để hiểu sự việc một cách chánh niệm, rồi quyết tâm đối mặt với chúng một cách tích cực, hiệu quả hơn.
Điều tốt nhất cần làm là tìm ra nguyên nhân của vấn đề một cách khách quan. Điều đó có nghĩa là tránh tập trung vào cá nhân. Cố gắng tìm ra gốc của vấn đề tùy theo trường hợp, chứ không đổ lỗi cho ai. Sau khi tìm ra căn nguyên rồi, tách nó khỏi hành động. Nếu bạn có thể tách bỏ nguyên nhân, thì chắc chắn bạn có thể gỡ bỏ sự sợ hãi, ở một mức độ nào đó hoặc tất cả.
Tiếc thay, bản tánh chúng sanh là thường bấn loạn, đau khổ hay si ám đối với bất cứ mục tiêu bất thành nào. Dù mục tiêu của bạn là gì, chúng phải có thể thực hiện được, các mục tiêu và kỳ vọng phải thực tế, xứng đáng với công sức. Lúc nào cũng cần tích cực nỗ lực để nhận thức được các lợi ích mà bạn có thể nhận được từ cơ hội tiềm ẩn trong khó khăn, thay vì trở nên bấn loạn.
Ví dụ khi bạn bị mất việc, hãy nghĩ đến thời gian quý báu được ở bên gia đình và bè bạn. Đó có thể là cơ hội tuyệt vời để bạn tìm hiểu một văn hóa, ngôn ngữ, hòa giải với ai đó, giảng pháp cho con cái, giới hạn giờ các con xem truyền hình để bảo vệ mắt chúng, dạy chúng nấu ăn, các kỹ năng sống, tập thiền, học pháp, đọc các bản kinh nguyên thủy của Đức Phật, hay tận hưởng giờ phút rảnh rang để dạo công viên với gia đình và bè bạn. Quý phụ huynh hãy nhớ, tạo ra những kỷ niệm đáng nhớ với gia đình thì quan trọng hơn làm ra tiền. Con cái chúng ta sẽ trưởng thành nhanh chóng, nên có thì giờ ở bên khi chúng còn nhỏ là rất quý. Chúng sẽ cảm nhận, tận hưởng và hàm ân điều đó. Cha mẹ và con cái đón nhận từ “mất việc” khác nhau. Trong khi con cái có thể hoan nghênh thông tin đó, thì cha mẹ xem đó như sự kết thúc cuộc sống. Dù ta có cần tiền bạc, nhưng nếu không thể thay đổi hoàn cảnh thì tốt hơn hãy học cách chuyển tin xấu hay giai đoạn bất như ý thành điều kiện thuận lợi. Tâm lý tích cực rất quan trọng. Thấu hiểu giáo lý của Đức Phật chắc chắn sẽ giúp ta chấp nhận sự việc, hoàn cảnh một cách tích cực hơn.
Sợ hãi & cảm xúc
Sợ hãi phát sinh trong tâm trí như là một trạng thái tinh thần. Khi có sợ hãi, tâm trí trực tiếp kết nối với trái tim. Vì vậy, vào thời điểm đó, cả bộ não và trái tim bị điều khiển không phải bởi trí tuệ, mà do cảm xúc. Cảm xúc luôn có hại. Cảm xúc phát sinh dựa trên tham, sân và si. Đây là lý do tại sao ta phải phát triển trí tuệ bằng cách phát triển các khía cạnh hiểu biết của tâm và khía cạnh tư duy của tâm (bhāvanā). Cảm xúc và sợ hãi kết hợp với nhau như một mắt xích. Khi có sợ hãi thì có cảm xúc và khi có cảm xúc thì có sợ hãi. Do đó, khi nào có sợ hãi, cảm xúc có mặt, và ngược lại cũng thế. Tuy nhiên, nếu chúng ta thông minh và đủ khôn ngoan để nhận biết và kiểm soát cảm xúc của mình, chúng ta có thể đạt được trạng thái tâm yên bình và trầm lắng.
Sợ là do tin rằng một ai đó hoặc một cái gì đó là nguy hiểm, có khả năng gây đau hoặc đe dọa ta. Theo Phật giáo, tất cả những ai chưa hoàn toàn đoạn trừ các phiền não đều chịu ảnh hưởng của sợ hãi. Điều đó có nghĩa là chỉ có những đấng giác ngộ hoàn toàn mới không còn tâm sợ hãi (vô úy). Khi chứng ngộ, họ đạt được trạng thái của vô úy (abhaya hoặc akutobhaya).
Sợ do tham ái
Đức Phật đã dạy rất rõ ràng, dễ hiểu trong kinh Pháp cú rằng, sợ hãi phát sinh từ tham ái (tanhā). Ngài nói:
Tham ái sinh sầu ưu,
Tham ái sinh sợ hãi.
Ai thoát khỏi tham ái,
Không sầu, đâu sợ hãi.(3)
Chúng ta không nên quên rằng gốc của tất cả mọi khổ đau (dukkha), bất mãn đều do tham ái. Chính Đức Phật đã từng nói rằng thế giới này bị tham ái đánh bẫy.(4) Theo lời dạy của Đức Phật, chúng ta cần dùng chánh niệm để kiềm chế, và dần đoạn diệt hoàn toàn tham ái. Đó là lý do tại sao Đức Phật dạy ta phương pháp tu tập Chỉ – Quán (Samatha-Vipassana) để hiểu ý nghĩa của sự nương trú thực sự và thực hành chúng, thay vì nương trú vào nhiều thứ trên đời một cách mù quáng. Thật vậy, vì sợ hãi chúng sanh nương trú, dựa dẫm vào nhiều thứ. Chúng ta phải hiểu sự nương trú thực sự là gì, và chọn theo nương trú đó. Sự nương trú không thể có ở nơi người khác.
Nơi nương trú thực sự cho sự không sợ hãi
Trong kinh Pháp cú, Đức Phật đã chỉ rõ điều gì xảy ra khi sợ hãi phát sinh trong tâm của kẻ phàm phu, không biết tu. Vì họ sợ hãi nhiều thứ, họ đi tìm sự che chở. Do đó, họ nương trú nơi nhiều thứ. Đức Phật đã giải thích:
Loài người sợ hoảng hốt,
Tìm nhiều chỗ quy y,
Hoặc rừng rậm, núi non,
Hoặc vườn cây, đền tháp.
Quy y ấy không ổn,
Không quy y tối thượng.
Quy y các chỗ ấy,
Không thoát mọi khổ đau?
Ai quy y Đức Phật,
Chánh pháp và chư Tăng,
Ai dùng chánh tri kiến,
Thấy được bốn Thánh đế.
Thấy khổ và khổ tập,
Thấy sự khổ vượt qua,
Thấy đường Thánh tám ngành,
Đưa đến khổ não tận.
Thật quy y an ổn,
Thật quy y tối thượng,
Có quy y như vậy,
Mới thoát mọi khổ đau.(5)
Cá nhân hóa và vô ngã hóa
Theo lời giải thích trên, khi sợ hãi người ta không thể hiểu sự việc rõ ràng. Vì vậy, họ không biết cần phải làm gì và không nên làm gì. Kết quả là, họ nương trú vào nhiều thứ mà không biết đâu là nơi nương trú thực sự. Không những thế, với nhận thức sai lệch của mình, họ bám chấp vào sự vật, xem chúng là tôi, là của tôi, xem vô thường là thường hằng, khổ là vui, và vô ngã là có ngã. Nhận thức đó gây nguy hiểm cho họ. Vì vậy, để giảm thiểu sợ hãi, họ bắt đầu thực hành nhiều loại nghi lễ. Đó là vì họ lo sợ phải mất đi những gì họ đã nắm bắt được bằng ảo tưởng. Kết quả là, họ hoàn toàn đắm chìm trong cái tôi, trong hoài nghi và tham gia vào các nghi lễ. Các hành động đó càng khiến họ gắn chặt thêm vào vòng sinh tử luân hồi (samsāra). Do đó, đối với họ, vô ngã hóa là điều không khả thi. Hơn nữa, do sợ hãi, họ tin rằng có một thực thể thường hằng, như linh hồn hay tự ngã cần được bảo vệ và sẽ giúp họ thoát khỏi sợ hãi. Họ nghĩ sai lầm rằng thân là tự ngã, thọ là tự ngã, tưởng, hành và thức là tự ngã. Bằng cách đó, họ chấp năm uẩn theo bốn cách (5×4 = 20 cách). Họ suy nghĩ: “Đây là thân tôi, đây là tự ngã, tự ngã ở trong thân hay thân ở trong tự ngã”. Cách suy nghĩ như thế được gọi là cá nhân hóa hoặc niềm tin vào cá tính. Đồng thời, họ cũng hoài nghi về quá khứ, tương lai và hiện tại. Đối với họ, không có cách nào để đạt được tâm vô úy (không sợ hãi) cả. Như Đức Phật đã dạy, ta phải trước tiên đoạn trừ ba kiết sử, và đi theo con đường đến sự không sợ hãi, dựa vào chỗ nương tựa thực sự là Tứ Thánh đế.
Sợ hãi & ba hình thức của hành vi thiện lành
Trong bài kinh Sợ hãi và khiếp đảm thuộc Trung bộ, Đức Phật đã giảng về sự sợ hãi như sau(6):
Này Bà-la-môn, rồi Ta suy nghĩ: “Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào, thân nghiệp không thanh tịnh, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhân nhiễm trước, thân nghiệp không thanh tịnh, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn làm cho sợ hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên. Ta không có thân nghiệp không thanh tịnh, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu. Thân nghiệp Ta thanh tịnh. Ta là một trong những bậc Thánh, với thân nghiệp thanh tịnh, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu”. Này Bà-la-môn, Ta tự quán sát thân nghiệp hoàn toàn thanh tịnh này, tự cảm thấy lòng tự tin được xác chứng hơn, khi sống trong rừng núi… khẩu nghiệp thanh tịnh… (như trên)… có ý nghiệp thanh tịnh… (như trên)…
Như vậy, rõ ràng là sợ hãi cũng phát khởi do sự không thanh tịnh hay bất thiện của tâm như cao ngạo, tham dục, hận thù, ganh ghét, hôn trầm, trạo cử, keo kiệt, và hoài nghi. Tóm lại, khi chúng ta tham dục, bám chấp dưới bất kỳ hình thức, phương tiện nào, chúng ta cũng sẽ bị kinh sợ. Lần nữa, ta thấy lời dạy của Đức Phật thật rõ ràng, “Bám chấp phát khởi do tham ái và sợ hãi phát khởi do tham ái. Những ai không có tham ái sẽ không bám chấp và không kinh sợ”.
Làm thế nào để chế ngự sợ hãi
1- Chế ngự sợ hãi không phải là điều dễ làm. Trước tiên, rõ ràng là để chế ngự sợ hãi, ta phải diệt trừ nguyên nhân gây ra sợ hãi. Đó là phương cách thực tế nhất. Đức Phật đã dạy trong kinh Đa giới(7):
Phàm có những sợ hãi gì sanh khởi, này các Tỷ-kheo, tất cả những sợ hãi ấy sanh khởi cho người ngu, không phải cho người hiền trí (pandita). Phàm có những thất vọng gì sanh khởi, này các Tỷ-kheo, tất cả thất vọng ấy sanh khởi cho người ngu, không phải cho người hiền trí. Phàm có những hoạn nạn gì sanh khởi, này các Tỷ-kheo, tất cả hoạn nạn ấy sanh khởi cho người ngu, không phải cho người hiền trí. Ví như, này các Tỷ-kheo, tia lửa từ ngôi nhà bằng cỏ, thiêu cháy ngôi nhà có lầu gác được trét trong trét ngoài, được che chở khỏi gió, có chốt khóa gài kỹ, có cửa sổ đóng kỹ; cũng vậy, này các Tỷ-kheo, phàm có những sợ hãi gì sanh khởi, này các Tỷ-kheo, tất cả những sợ hãi ấy sanh khởi cho người ngu, không phải cho người hiền trí; phàm có những thất vọng gì sanh khởi, này các Tỷ-kheo, tất cả những thất vọng ấy sanh khởi cho người ngu, không phải cho người hiền trí; phàm có những hoạn nạn gì sanh khởi, này các Tỷ-kheo, tất cả những hoạn nạn ấy sanh khởi cho người ngu, không phải cho người hiền trí. Như vậy, này các Tỷ-kheo, kẻ ngu đầy những sợ hãi, người hiền trí không có sợ hãi. Kẻ ngu đầy những thất vọng, người hiền trí không có thất vọng. Kẻ ngu đầy những hoạn nạn, người hiền trí không có hoạn nạn. Này các Tỷ-kheo, không có sợ hãi cho người hiền trí, không có thất vọng cho người hiền trí, không có hoạn nạn cho người hiền trí. Do vậy, này các Tỷ-kheo, “Chúng ta sẽ thành người hiền trí, biết suy tư tìm hiểu”. Như vậy, này các Tỷ-kheo, các ông cần phải học tập.(7)
Những ai đang tìm cách khắc phục sợ hãi phải hiểu điều này như một sự thật hiển nhiên. Tóm lại, sợ hãi phát sinh do ngu si. Là người trí, chúng ta có thể kiềm chế sợ hãi. Chắc chắn là nếu ta khôn ngoan, ta có thể hiểu nhiều điều về sợ hãi và ta không muốn làm kẻ khờ để sợ bất cứ thứ gì vật chất hay tâm linh. Vì thế hãy mong là ta có đủ thông minh và kiên nhẫn để tìm ra được nguyên nhân của sợ hãi. Đó là phương cách thứ nhất để khắc phục sợ hãi.
2- Thứ đến ta phải hiểu là khi nào ta còn bị sợ hãi chế ngự, ta không thể biết là mình đang sống trong quá khứ hay tương lai. Vấn đề chính là đây. Chính điều đó khiến ta bất an. Ta không sống trong hiện tại. Ta đầy hoang tưởng, đầy ước vọng, có nghĩa là ta hoặc đào sâu quá khứ hay bới móc tương lai. Nhưng nếu ta quay về với giây phút hiện tại ta sẽ thấy điều gì đang xảy ra trước mắt. Ta sẽ thấy những gì ta đang bám chấp như là sở hữu của mình đang đổi thay hay biến mất đi một cách nhanh chóng. Đức Phật dạy: “Tất cả những gì thân thiết, quý báu đối với con người đều đang chuyển đổi và biến mất. Sự thật này đúng cho Tăng, Ni, và nam nữ cư sĩ”. Do đó, dứt bỏ, đập tan, tiêu hủy hoàn toàn sợ hãi theo lời dạy của Đức Phật là dứt bỏ bóng tối của vọng tưởng, ảo vọng, ngu si, nhờ đó ta sẽ được che phủ từ đầu tới chân với giây phút hiện tại là giây phút quý báu nhất. Đức Phật khuyên: “Hãy buông bỏ quá khứ, hãy buông bỏ tương lai, hãy buông bỏ hiện tại, và vượt qua bến bờ xa vời của hiện hữu. Với tâm hoàn toàn giải thoát, ngươi sẽ không còn sinh, tử nữa”.(8) Đức Phật cũng dạy:
Không đáng sợ, lại sợ,
Đáng sợ, lại thấy không,
Do chấp nhận tà kiến
Chúng sanh đọa ác thú.(9)
Tóm lại, ta cần sống trong giây phút hiện tại, biết rõ những gì đang xảy ra quanh ta ngay bây giờ. Nhờ đó, ta có thể phá tan bóng tối của sợ hãi. Đó là phương cách thứ hai mà ta có thể áp dụng để chế ngự sợ hãi phát sinh.
3- Hãy bàn về phương cách thứ ba. Áp dụng sáu đặc tính đối với bất cứ đối tượng nào, dù là chúng sinh hay phi chúng sinh, mà ta để tâm đến qua sáu giác quan. Sáu đặc tính đó là gì? Tập trung và quán đối tượng là do duyên hợp, mong manh, phát khởi tùy điều kiện, và lặp lại trong đầu, “Cái này không phải của tôi, không phải tôi, không phải tự ngã của tôi. Và nó vô thường, khổ và vô ngã”. Đó là cách giúp ta hiểu thực tại như nó là, nhìn sự vật như chúng thực sự là. Sau đó ta có thể buông bỏ nỗi sợ hãi phát sinh vì ta thấy được sự vô ích và vô nghĩa của việc nắm giữ mọi thứ như chúng là của ta.
4- Phương cách thứ tư như sau. Với mục đích chế ngự sợ hãi, ta phải hiểu biết về nhân và quả hay nhân duyên. Ta phải phân tích sự việc, suy luận với tâm trong sáng, ứng dụng sự chú tâm khôn ngoan. Đó là cách để đối trị sợ hãi. Đức Phật, ngay trước khi giác ngộ, khi còn là vị Bồ-tát chưa chứng ngộ, cũng thực hành như thế khi Ngài còn ở tại hoàng cung và khi tu khổ hạnh trong rừng. Ngài dạy:
Này Bà-la-môn, trong khi ta ở tại các chỗ ấy, một con thú có thể đến, hay một con công làm rơi một cành cây, hay gió làm rung động các lá rơi; Ta khởi lên ý nghĩ: “Nay sự sợ hãi khiếp đảm ấy đã đến!”. Này Bà-la-môn, rồi Ta suy nghĩ: “Sao Ta ở đây, chỉ để mong đợi sự sợ hãi khiếp đảm chớ không gì khác? Trong bất cứ hành vi cử chỉ nào của Ta mà sợ hãi khiếp đảm ấy đến, trong hành vi cử chỉ ấy, Ta hãy trừ diệt sợ hãi khiếp đảm ấy”. Này Bà-la-môn trong khi Ta đi kinh hành qua lại mà sợ hãi khiếp đảm ấy đến, thì này Bà-la-môn, Ta không đứng, Ta không ngồi, Ta không nằm, nhưng Ta trừ diệt sợ hãi khiếp đảm ấy trong khi Ta đi kinh hành qua lại. Này Bà-la-môn, trong khi Ta đang đứng mà sự sợ hãi khiếp đảm ấy đến, thì này Bà-la-môn, Ta không kinh hành qua lại, Ta không ngồi, Ta không nằm, nhưng Ta trừ diệt sợ hãi khiếp đảm ấy trong khi Ta đang đứng. Này Bà-la-môn, trong khi Ta đang ngồi mà sợ hãi khiếp đảm ấy đến, thì này Bà-la-môn, Ta không nằm, Ta không đứng, Ta không kinh hành qua lại, nhưng Ta trừ diệt sợ hãi khiếp đảm ấy trong khi Ta đang ngồi. Này Bà-la-môn, trong khi Ta đang nằm mà sợ hãi khiếp đảm ấy đến, thì này Bà-la-môn, Ta không ngồi, Ta không đứng, Ta không kinh hành qua lại, nhưng Ta trừ diệt sợ hãi khiếp đảm ấy trong khi Ta đang nằm… Này Bà-la-môn, có một số Sa-môn, Bà-la-môn nghĩ rằng ngày giống như đêm, nghĩ rằng đêm giống như ngày. Như vậy, Ta nói rằng những Sa-môn, Bà-la-môn ấy sống trong si ám. Này Bà-la-môn, Ta nghĩ rằng đêm là đêm, nghĩ rằng ngày là ngày. Này Bà-la-môn, ai nói một cách chơn chánh sẽ nói như sau: “Vị hữu tình nào không có si ám, sinh ra ở đời vì hạnh phúc cho muôn loài, vì an lạc cho muôn loài, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài Trời và loài Người. Vị ấy khi nói một cách chân chánh về Ta sẽ nói như sau: “Là vị hữu tình không có si ám, sinh ra ở đời vì hạnh phúc cho muôn loài, vì an lạc cho muôn loài, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài Trời và loài Người”.(10)
Đó là cách mà Bồ-tát đã đoạn diệt sợ hãi phát sinh bằng tâm trong sáng, chú tâm thiện xảo và quyết chí. Khi chúng sanh bị si ám với vọng tưởng và sợ hãi, chắc chắn là họ sẽ bị hoang tưởng và nhìn sự vật một cách sai lệch, có thể hoàn toàn đảo ngược.
5. Một lần, có vị Bà-la-môn tu khổ hạnh tên là Bawari gửi mười sáu người đệ tử của ông đến đảnh lễ Đức Phật và thưa hỏi Đức Phật về vô minh. Các vị đệ tử này đến đảnh lễ Đức Phật như lời dặn của sư phụ họ, sau đó họ hỏi về vô mình. Do đó Đức Phật đã trả lời họ. Họ hài lòng và hoan hỷ, sau đó họ cũng hỏi những câu hỏi của cá nhân. Trước tiên, một đệ tử tên Ajita hỏi:
Tôn giả A-ji-ta:
Do gì, đời bị che,
Do gì, không chói sáng,
Hãy nói lên cái gì,
Làm uế nhiễm cuộc đời,
Cái gì sợ hãi lớn?
Thế Tôn:
Thế Tôn liền đáp lại:
Đời bị vô minh che,
Do xan tham, phóng dật,
Đời không được chói sáng,
Ta nói do mong cầu,
Nên đời bị uế nhiễm,
Chính là sự đau khổ,
Nên có sợ hãi lớn.(11)
Theo lời dạy của Phật, rõ ràng nỗi kinh sợ lớn nhất của con người là khổ hay bất toại. Họ gần như luôn không vừa lòng với cái mình có. Chính điều đó là nguyên nhân của sợ hãi. Do đó, thuốc chữa cho sự sợ hãi này là phát triển sự hài lòng hay biết đủ. Đức Phật đã dạy rất rõ ràng rằng sự biết đủ, hài lòng là tài sản lớn nhất.(12) Do đó, đây là phương cách thứ năm để đối trị sợ hãi.
6- Đức Phật dạy ta không nên đi theo những con đường tà hạnh (agati). Do đó, Ngài cho ta biết về bốn loại tà hạnh. Chúng ta cần nhớ sợ hãi là một trong bốn tà hạnh đó. Ngài dạy: “Này các Tỷ-kheo, có bốn cách hành tà hạnh. Bốn tà hạnh đó là gì? Chúng sanh đi theo tà hạnh do tham ái, do sân hận, do si hay do sợ hãi. Chúng là bốn thứ đưa đến tà hạnh”. Điều gì thực sự xảy ra nếu ta đi theo bốn tà hạnh này?
Dắt dẫn bởi dục, sân,
Bởi sợ hãi, si mê,
Ai vượt qua Chánh pháp,
Thời danh xưng người ấy,
Bị tổn giảm hư hại,
Như trăng trong thời tối.(13)
Vì thế nếu ta không đi theo tà hạnh sợ hãi, đó chính là cách để gỡ bỏ nỗi sợ hãi đi sai đường. Khi ta hành các hạnh sai trái này là ta tạo ác hành.
7- Để giúp bảo vệ tâm chúng sanh, Đức Phật đã thuyết nhiều bài kinh bảo hộ (paritta) khác nhau. Đặc biệt, để giúp bảo hộ khỏi sự sợ hãi và lo âu, Ngài đã nói một số kinh. Trong đó, có một kinh đặc biệt được gọi là “Kinh về ngọn cờ bảo vệ” (Dhajagga Sutta) được Ngài nói như sau:
Chính tôi nghe như vầy: Một thời Đức Phật ở Kỳ Viên tịnh xá (Jeta-vana) tại thành Xá Vệ (Savathi) trong vườn của ông Cấp Cô Độc (Anathapindika). Ngay khi ấy Ngài giảng cho các đệ tử nghe về sự việc này.
4. Này các Tỷ-kheo, lâu xa về trước, một trận chiến đã diễn ra ác liệt giữa chư Thiên và các A-tu-la.
Khi ấy Thiên chủ (Sakka), vị cai quản chư thiên, đã nói với các vị trời thứ 33 rằng: “Quý vị thân mến, khi các ông ra mặt trận, nếu trong lòng các ông phát sinh sự sợ hãi, hoảng hốt, và khó chịu của thân xác, thì hãy nhìn lên đỉnh ngọn cờ của ta.
Nếu các ông làm như vậy, bất kỳ nỗi sợ hãi, hoảng hốt, và khó chịu nào có thể phát sinh trong thân sẽ được khuất phục.
5. Nếu các ông không nhìn lên đỉnh ngọn cờ của ta,
Thì hãy nhìn lên đỉnh ngọn cờ của Pajapati, vua của chư thiên.
Nếu làm như vậy, bất kỳ nỗi sợ hãi, hoảng hốt, và khó chịu nào có thể phát sinh trong thân đều được khắc phục.
6. Nếu các ông không nhìn lên đỉnh ngọn cờ của Pajapati, Vua chư thiên, thì hãy nhìn lên đỉnh ngọn cờ của Varuna, vua của chư thiên. Nếu các ông làm thế, bất kỳ nỗi sợ hãi, hoảng hốt, và khó chịu nào có thể Phát sinh trong thân thể sẽ được khuất phục.
7. Nếu các ông không nhìn lên đỉnh ngọn cờ của Vuruna,
Vua của chư thiên, thì hãy nhìn lên đỉnh ngọn cờ của Isana, vua của chư thiên.
Nếu các ông làm như vậy, bất kỳ nỗi sợ hãi, hoảng hốt, và khó chịu nào có thể Phát sinh trong thân thể sẽ được khuất phục.
8. Nào, các Tỷ-kheo, hãy nhìn lên đỉnh ngọn cờ hoặc một trong bốn ngọn cờ này
Bất cứ những sợ hãi, hoảng hốt và khó chịu nào của thân thể mà các ông có thể có, chúng có thể được khuất phục hoặc có thể không.
9. Và tại sao như vậy? Bởi vì Thiên chủ, Vị cai quản của chư Thiên chưa gột rửa được tham, sân, si nên e dè, bị hoảng loạn, sợ hãi và bỏ chạy.
10. Nhưng các vị Tỷ-kheo, Ta nói điều này với các ông:
Nếu khi các ông đi vào rừng, tới gốc cây, tới những nơi hoang vắng và nỗi sợ hãi, hoảng hốt và trạng thái nổi da gà xảy ra tới với các ông, khi đó các ông chỉ cần khẩn cầu ta trong tâm và nghĩ:
Đức Như Lai Ưng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.
11. Này các Tỷ-kheo, nếu các ông khẩn cầu ta trong tâm, bất cứ nỗi sợ hãi, hoảng hốt và khó chịu nào của thân thể mà các ông có thể có sẽ được khắc phục.
12. Và nếu không thể khẩn cầu ta, khi ấy Hãy kêu cầu giáo pháp trong tâm và nghĩ:
13. Đức Thế Tôn đã tuyên thuyết rõ ràng rằng
Giáo pháp gắn liền với hiện tại, và Có kết quả nhanh chóng, thỉnh mới và Kích thích tất cả, dẫn dắt, lôi cuốn mỗi người, và bậc hiền minh thì hiểu được.
14. Nếu các ông khẩn cầu giáo pháp trong tâm, Thì nỗi sợ hãi, kinh hoàng và khó chịu Trong thân sẽ biến mất.
15. Và nếu không thể khẩn cầu giáo pháp Trong tâm, các ông hãy kêu cầu Tăng đoàn, và nghĩ;
16. Tăng đoàn đệ tử của Đức Thế Tôn được thực hành kỹ lưỡng trong sự chính trực, trong những phương pháp trí tuệ, trong chánh hạnh – cùng với bốn cặp, tám nhóm người; đây là Tăng đoàn đệ tử của Đức Thế Tôn xứng đáng với những sự cúng dường, những sự ban tặng, tôn kính, chào đón, ruộng công đức vô song của thế gian.
17. Nếu các ông khẩn cầu Tăng đoàn trong tâm, thì nỗi sợ hãi, kinh hoàng và khó chịu thân xác sẽ biến mất.
18. Và tại sao như thế?
Hỡi các đệ tử của Ta, đó là vì
Như Lai là bậc A-la-hán (Ứng Cúng),
Bậc Toàn giác, đã gột sạch tham, sân và si, không còn e dè, hoảng hốt hay sợ hãi và chạy trốn nữa.
19. Đức Thế Tôn đã nói như thế và Ngài lặp lại lần nữa:
20. Các Tỷ-kheo, bất cứ khi nào các ông an trú trong rừng hay
Trong trảng cỏ rậm rạp, hoặc những nơi hoang vắng và cô tịch,
Hãy khẩn cầu Đấng Giác ngộ trong tâm; các ông sẽ
Không sợ hãi, không còn cảm thấy nguy hiểm.
21. Hoặc nếu các ông không thể nghĩ tưởng về Đức Phật bậc cao cả nhất thế gian, bậc không ngại khó khăn của con người – khi ấy hãy khẩn cầu giáo pháp trong tâm, Người dẫn đường đem lại nhiều hiệu quả;
22. Hoặc nếu các ông không thể nghĩ lường về giáo pháp,
Là giáo lý với những hướng dẫn được giảng dạy rõ ràng
Thì hãy hướng tư tưởng tới Tăng đoàn,
Cánh đồng không gì sánh, nơi người ta có thể
Gieo trồng các thiện hạnh.
23. Nếu các ông quy y Phật, Pháp, Tăng, thì nỗi sợ hãi, hoảng hốt và khó chịu của thân sẽ không bao giờ xuất hiện.(14) Đây là một phương cách khác để hóa giải sự sợ hãi. Niệm ân đức của Phật, Pháp và Tăng. Rất vi diệu. Tất cả các tu sĩ ở trong rừng đều tụng kinh này để được bảo vệ khỏi các ma quỷ và thú vật như rắn rít.
8- Theo lời dạy của Đức Phật thì vì không biết sợ hãi luân hồi (samsāra), chúng ta lang bạt luân hồi trong vô minh và đắm chìm trong tham ái. Ta cần hiểu về nỗi sợ hãi luân hồi cho đúng. Chỉ khi đó ta mới có thể tìm thấy những biện pháp khắc phục thực sự cho căn bệnh này. Đức Phật nói: Vô thỉ là luân hồi, này các Tỷ-kheo, khởi điểm không thể nêu rõ đối với lưu chuyển luân hồi của các chúng sanh bị vô minh che đậy, bị tham ái trói buộc…(15) Nếu biết kinh sợ luân hồi, ta đã không bám chấp vào mọi thứ và sống như thể ta không chết. Vì tất cả chúng ta đều đối mặt với cái chết, kinh sợ cái chết, chúng ta càng nên làm nhiều việc tốt hơn để được tái sanh vào các cõi lành. Chúng ta càng phải hành thiện nhiều hơn để có được một cuộc hành trình vào luân hồi an bình và hạnh phúc. Như thế, biết được bản chất của luân hồi cũng chính là một cách để xua tan sự sợ hãi trong kiếp sống mang nhiều đau khổ.
9- Trong Tăng chi bộ (Anguttara Nikaya) khi nhắc đến sự sợ hãi, Đức Phật thuyết, người phàm phu đã nói thế nào về ba thứ làm chia rẽ mẹ và con mà họ sợ (sợ bị chia rẽ). Họ nói đó là sự kinh sợ hỏa tai lớn, lụt lội lớn, và giặc cướp rừng nổi lên. Tuy nhiên, Đức Phật nói rằng có những nỗi kinh sợ khác:
– Có ba sợ hãi này, này các Tỷ-kheo, làm chia rẽ mẹ con. Thế nào là ba?
Sợ hãi về già, sợ hãi về bệnh, sợ hãi về chết.
Này các Tỷ-kheo, mẹ không muốn con mình bị già: “Ta nay bị già, mong rằng con Ta không bị già!”. Hay người con không muốn mẹ mình bị già: “Ta nay bị già, mong rằng mẹ Ta không bị già!”.
Này các Tỷ-kheo, mẹ không muốn con mình bị bệnh: “Ta nay bị bệnh, mong rằng con Ta không bị bệnh!”. Hay con không muốn mẹ mình bị bệnh: “Ta nay bị già, mong rằng mẹ Ta không bị bệnh!”.
Này các Tỷ-kheo, mẹ không muốn con mình bị chết: “Ta nay bị chết, mong rằng con Ta không bị chết!”. Hay người con không muốn mẹ mình bị chết: “Ta nay bị chết, mong rằng mẹ Ta không bị chết!”. Ðây là ba sợ hãi, này các Tỷ-kheo, làm chia rẽ mẹ con.(16)
Vậy thì phải làm sao? Không thể làm gì hơn là phải càng thông minh, trí tuệ. Chánh niệm về bản chất của vô thường. Không có gì bất biến. Mọi thứ đều thay đổi, mọi thứ đều không hoàn hảo, và mọi thứ đều không có thực thể hay linh hồn. Với sự hiểu biết này, ta có thể phá vỡ, chế ngự nỗi sợ hãi đang có mặt và sợ hãi có thể phát khởi trong tương lai. Đó là phương cách thứ chín.
10- Đức Phật đã thuyết về năm loại sợ hãi. Ngài đã chỉ ra rõ ràng rằng khi nào ta chưa chế ngự năm loại sợ hãi thì ta chưa được an toàn vì ta vẫn còn khuynh hướng bị tái sinh vào ác thú, ngạ quỷ, hay các cõi đọa khác như địa ngục. Đó là nỗi kinh sợ trong luân hồi. Không ai có thể thoát khỏi nỗi sợ này, sự nguy hiểm này nếu họ chưa thấu đạt Tứ diệu đế. Đức Phật đã nói với gia chủ Anāthapindika rất rõ ràng, súc tích rằng:
Khi nào, này gia chủ, vị Thánh đệ tử nhiếp phục được năm sợ hãi, hận thù, khi nào được đầy đủ bốn Dự lưu chi, khi nào Thánh lý (nāya) nhờ trí tuệ được khéo thấy, được khéo thâm nhập, khi ấy, vị ấy nếu muốn, có thể tự mình tuyên bố cho mình: “Ta là người đoạn diệt được địa ngục, đoạn diệt được bàng sanh, đoạn diệt được ngạ quỷ, đoạn diệt được cõi dữ, ác thú, đọa xứ. Ta là bậc Dự lưu, ta không còn bị đọa lạc, ta đã được quyết định, Chánh Ðẳng Giác là mục tiêu tối hậu của ta”.(17)
Đó là các phương cách giúp ta bước vào trạng thái vô úy. Để hoàn thành sứ mệnh cuối cùng, còn có ba giai đoạn phải hoàn mãn, đó là Nhất lai, Bất lai và A-la-hán quả (arahantship). Vị A-la-hán là phàm phu đã hoàn toàn diệt trừ sợ hãi và đã đạt được trạng thái vô úy (abhaya). Vị đó không còn sợ các uế nhiễm tham, sân và si. Đức Phật của chúng ta là bậc Vô úy tối thượng trên thế gian, Người đã mang trạng thái vô úy đến cho cả vũ trụ. Vì thế, chúng ta hãy tìm hiểu bản chất của sợ hãi và phương cách để chế ngự sợ hãi hầu đạt được trạng thái vô úy như Đức Phật đã dạy. Đó là quan điểm của Phật giáo mà Đức Phật đã khéo dạy trong giáo lý của Ngài.
Tóm tắt
Sợ hãi phát sinh do tham ái và chấp. Theo Phật giáo, có mười phương cách để chế ngự sợ hãi mà ta có thể ứng dụng:
1 – Hãy có đủ thông minh để hiểu sự việc cho đúng.
2 – An trú trong giây phút hiện tại.
3 – Áp dụng sáu đặc tính vào bất cứ thứ gì xảy ra trong tâm qua các giác quan.
4 – Quán chiếu sự việc để hiểu nhân và quả của điều gì đang xảy ra.
5 – Phát triển tâm biết đủ hay bằng lòng (santutthi).
6 – Hiểu sợ hãi là tà hạnh (agati) và tránh nó.
7 – Niệm và tưởng nhớ ân đức của Phật, Pháp và Tăng.
8 – Thấu hiểu nỗi kinh sợ luân hồi và nhanh chóng thoát khỏi sự hiện hữu trong luân hồi.
9 – Thấu hiểu ba cái khổ của già, bệnh và chết.
10 – Cố sức diệt trừ năm sự sợ hãi hận thù bất mãn để đạt được trạng thái bước vào dòng (nhập lưu) và giác ngộ tối thượng để ta có thể xóa bỏ hoàn toàn sợ hãi. Cầu mong mọi chúng sanh được an vui, hạnh phúc! Cầu mong tất cả không còn sự sợ hãi! Cầu mong tất cả sống lâu trong an lạc!
Bhante T.Seelananda
Diệu Liên Lý Thu Linh dịch
(Chuyển ngữ theo How to Overcome Fear, Bhavana Society Forest Monastery, High View, WV, USA, 2 October, 2018)
_______________
(*) Tỳ-kheo Seelananda sinh ra và lớn lên tại Tích Lan. Sư tu theo truyền thống Nguyên thủy. Sư và các huynh đệ thành lập trung tâm thiền tại Edmonton, Canada. Từ tháng 1, năm 2011, Trưởng lão Thiền sư Henepola Gunaratana đã chỉ định Sư Seelananda làm Phó trụ trì và Phó Chủ tịch của Trung tâm Bhavana tại Virginia, Hoa Kỳ.
(1) Tất cả các trích dịch kinh Pháp cú (Dhammapada) đều theo bản dịch Việt ngữ của Hòa thượng Thích Minh Châu. 419. Ai hiểu rõ hoàn toàn Sanh tử các chúng sanh, Không nhiễm, khéo vượt qua, Sáng suốt chân giác ngộ, Ta gọi Bà-la-môn.
(2) 129. Mọi người sợ hình phạt, Mọi người sợ tử vong. Lấy mình làm ví dụ Không giết, không bảo giết.
(3) 216. Tham ái sinh sầu ưu, Tham ái sinh sợ hãi. Ai thoát khỏi tham ái, Không sầu, đâu sợ hãi.
(4) S.N. I. 67 (7). Ensnared. Tương ưng bộ.
(5) Kinh Pháp cú, kệ 188-192.
(6)M.N. No. 4. Bhayabherava Sutta (Kinh Sợ hãi và khiếp đảm).
(7) M.N. No. 115. Bahudhatuka Sutta (Kinh Đa giới).
(8) Kinh Pháp cú, kệ 348.
(9) Kinh Pháp cú, kệ 317.
(10) M.N. No. 4. Bhayabherava Sutta (Kinh Sợ hãi và khiếp đảm).
(11) Sutta Nipata. 5. 2. Ajita’s Questions. Kinh Tập (Sutta Nipata), chương Năm, phẩm Con đường đến bờ bên kia.
(12) Kinh Pháp cú, kệ 204. Không bệnh: Lợi ích xiết bao! Vừa lòng, biết đủ: Phú hào bảo châu! Tín thành: Quyến thuộc hàng đầu Niết-bàn: An lạc, nhiệm mầu tối tôn! (Kinh Lời vàng, Minh Đức Triều Tâm Ảnh thi hóa Pali-Việt).
(13) A.N. 4. 18 (8). Wrong Courses.
(14) The Book of Protection. Venerable Piyadassi Thero. Kandy, Buddhist Publication Society, 1999. https://phatphapbuddhadhamma.com/cam-nang-tung-niem-cua-phat-tu-mien-dien.
(15)Tương ưng bộ, Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt, tập II, thiên Nhân duyên, chương IV, Tương ưng vô thỉ (Anamatagga): “Vì sao? Vô thỉ là luân hồi, này các Tỷ-kheo, khởi điểm không thể nêu rõ đối với lưu chuyển luân hồi của các chúng sanh bị vô minh che đậy, bị tham ái trói buộc.”
(16) Tăng chi bộ, chương Ba pháp, phẩm Lớn – 62: Các sợ hãi.
(17) Tương ưng bộ, Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt – tập II, phẩm Gia chủ thứ năm, Năm hận thù sợ hãi.
[ad_2]