[ad_1]
GN – Vừa đến cổng nhà bà, tôi đã nghe vang tiếng chuông mõ. Biết đã đến giờ bà tụng kinh nên tôi ngồi chờ ngoài sân. Mùi hương trầm thơm phức hòa với mùi huệ ngạt ngào nơi bờ giếng không thể lẫn với bất kỳ loài hoa nào khác như đưa tôi về với những năm tháng tuổi thơ bên bà.
Bà tôi sinh ra trong một gia đình nghèo, chỉ có hai anh em. Trước khi ông ngoại tôi (anh của bà) mất, có trao lại cho bà sợi dây chuyền bạc mà cố tôi gửi lại để sau này bà lấy chồng làm của hồi môn. Sợi dây chuyền có mặt in hình Phật. Bà đeo vào cổ và giữ nó như vật báu. Rồi bà tham gia thanh niên xung phong một thời gian. Trở về, mặc cho mọi người thúc giục, gán ghép, bà vẫn lặng thinh, không lập gia đình. Bà xin chị dâu (bà ngoại tôi) cho sang căn nhà giáp núi trên mảnh đất của hai cố tôi khai phá, và cứ ở vậy một mình cho đến nay.
Sợi dây chuyền bạc được bà cất kỹ trong chiếc hộp nhỏ xinh xắn, đặt trong cái tráp để trên bàn thờ. Mẹ tôi nói, một lần sang thăm bà, thấy bà đặt sợi dây chuyền lên bàn thờ rồi cứ quỳ thế suốt cả mấy tiếng đồng hồ. Mẹ hỏi thì bà nói, giờ bà đã là người nhà Phật rồi. Có hôm, sáng sớm có người đến chơi mới hay bà mệt, nằm một mình trên giường, không ai lo cơm cháo. Nhắc lại những câu chuyện đó, bà chỉ cười và nói: “Bà thờ Phật thì Phật sẽ chở che”. Bà tôi thường tụng kinh vào những ngày mùng một và rằm. Những khi rảnh rang, bà đọc kinh sách Phật say sưa, như quên đi những thứ xung quanh mình.
Cuộc sống của bà cứ thế nhẹ nhàng trôi đi, với đồng lương hưu tằn tiện, với sào ruộng cấy lúa theo mùa, với rau cỏ mùa nào thức nấy trong vườn. Ngày còn học cấp một, tôi thường quanh quẩn bên bà, theo bà nhặt rau củ quả. Trước khi ra về, tôi có cả một bì củ quả, những thứ mà mấy đứa em tôi ở nhà luôn ngóng đợi mỗi khi chúng biết tôi được sang nhà bà. Tôi thích nhất là những cành huệ trắng bà trồng nơi bờ giếng. Tôi xin bà một cành có những búp đã căng tròn, gần nở đem về cắm trong chai cổ lọ, đặt cạnh bàn thờ ông nội. Tối đến, mùi huệ thơm lắm. Ngồi học bài, tôi cứ thế mà hít hà.
Niềm vui lớn nhất của bà là được đi thăm nhiều đền chùa ngoài Bắc trong Nam. Bà sống một mình nhưng không đơn độc. Bà tu tại gia, tâm luôn hướng Phật, cầu phúc cho con cháu. Mỗi lần sang nhà bà, chúng tôi lại được nghe bà kể những câu chuyện Phật, những chuyện nhân quả ở đời. Có lẽ vì thế mà những năm tôi học đại học xa nhà, vào những ngày rằm hay mùng một, tôi thường đi lễ chùa để tìm cho mình một không gian yên tĩnh, tạm bỏ lại sau lưng những xô bồ, toan lo mệt nhọc của cuộc sống. Đến chùa, tôi ngỡ như mình đang được ở bên bà, nhẹ nhàng, tĩnh tâm.
Cuộc sống của bà giản đơn mà rất an lạc. Ở cái tuổi ngoài 70, bà vẫn nhanh nhẹn, hoan hỷ, lạc quan, nét cười luôn hiện hữu trên gương mặt điềm đạm. Ẩn sau nụ cười là hàm răng nhai trầu đen nhánh. Bà tôi rất thích ăn trầu. Đó là lý do bà trồng đến hai giàn trầu, phần vì hái cúng Phật, phần cho hàng xóm mỗi khi đến ngày lễ Tết, phần để bà ăn. Tôi vui và thầm cảm ơn Đức Phật đã luôn che chở cho bà.
Nhớ lại những năm dạy học xa nhà, khi một mình đối diện với những trận ốm đau thập tử nhất sinh, tôi đều vượt qua. Tôi biết, bà luôn cầu nguyện cho tôi, và tôi cũng luôn tin vào Đức Phật. Tôi nhận ra rằng, chính niềm tin và tình thương yêu sẽ giúp con người vượt qua tất cả.
[ad_2]